Hệ giá trị và chuẩn mực xã hội
Văn hóa là yếu
tố gắn kết các cá nhân với nhau trong một cộng đồng bằng một hệ thống các giá trị và các chuẩn mực xã hội.
Giá trị văn hóa là hệ thống những đánh
giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng
những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp, nói cách
khác đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Do
vậy, giá trị văn hoá cũng chính là giá trị
xã hội, nó gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự tồn tại và
phát triển của mỗi xã hội.
Chuẩn mực xã hội là các qui tắc ứng xử
phản ánh những giá trị của một nền văn hóa. Các giá trị và các chuẩn mực định
hướng cho các thành viên của một nền văn hóa phải ứng xử như thế nào với môi
trường xung quanh họ.
Giá trị văn hoá
của mỗi cộng đồng (tộc người, quốc gia...) bao giờ cũng tạo nên một hệ thống,
với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ, tác động hữu
cơ với nhau. Khi nói hệ thống các giá trị hay bảng giá trị văn hoá của mỗi cộng
đồng thì thường bao hàm hai ý nghĩa: 1) Các giá trị riêng lẻ liên kết nhau tạo
nên một hệ thống các giá trị, 2) Có sự sắp đặt trước sau, độ nhấn về tầm quan
trọng của từng nhân tố giá trị trong một bảng giá trị.
Đối với mỗi dân
tộc trong những hoàn cảnh lịch sử và xã hội cụ thể đều tồn tại hệ giá trị tổng
quát và những hệ giá trị bộ phận. Hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị
chung nhất, mang tính phổ quát, có vai trò định hướng đối với tư duy và hành
động của cả cộng đồng. Để hình thành nên giá trị, bảng giá trị của một cộng
đồng thì phải trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nên giá trị thường mang tính
ổn định và khá bền vững. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là giá trị là
cái gì bất biến mà giá trị với tư cách là sự đánh giá của con người về cái hay,
cái tốt, cái đẹp đối với tự nhiên, xã hội và tư duy, nó phản ánh nhu cầu của
con người trong một môi trường xã hội nhất định. Do vậy, giá trị với tư cách là
thước đo cũng mang tính biến động cùng với sự biến động xã hội. Và như vậy,
nghiên cứu văn hóa luôn có hai nội dung quan trọng:
1.
Phát hiện ra những giá trị, chuẩn mực đặc trưng của nền văn hóa được nghiên
cứu.
2. Nghiên cứu sự biến đổi các giá trị, chuẩn
mực và quá trình hình thành các giá trị, chuẩn mực mới của nền văn hóa.
Hệ thống các giá trị văn hóa Việt
GS. Trần Văn
Giầu đã từng nêu hệ thống giá trị văn hóa Việt gồm 7 giá trị mang tính tổng
quát nhất của dân tộc Việt Nam,
đó là : yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng
tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Theo Nghị quyết TW 5 khóa VII (1991 – 1995) của Đảng, những đức tính nổi bật của bản sắc Việt Nam,
cũng có thể hiểu đó là các giá trị của con người Việt Nam là: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã
- tổ quốc, lòng khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tính cần cù sáng tạo trong
lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”
Trong bài trả
lời phỏng vấn gần đây, GSTS. triết học Hồ Sĩ Quý – Viện trưởng Viện thông tin
Khoa học xã hội đã đề cập những phẩm chất nổi bật của người Việt hiện nay là:“thông minh, năng động, học giỏi và ít nhiều
chịu khó là phẩm chất khó phủ nhận của người Việt, trong so sánh với bất kỳ
cộng động tương đương nào. Và, thiếu triệt để trong tư duy và hành động, thiếu
đại lượng khi nhìn nhận cá nhân, khi đánh giá người bên cạnh mình, và thiếu một bảng giá trị không lệch lạc để
điều chỉnh hành vi là những điểm dở nhất trong tính cách người Việt, kể cả
người Việt sống ở nước ngoài”
*********************
GS. Hồ Sỹ Quý: Theo
tôi, bảng giá trị điều chỉnh hành vi ở ta đang lệch lạc, thậm chí khá lệch lạc.
Nếu lần theo những
hiện tượng kinh tế - văn hóa - xã hội cụ thể, có lẽ không mấy khó khăn để nhận
ra, mục đích thực, mục đích kép, hoặc mục đích ẩn giấu đằng sau không ít các
hiện tượng đó không trùng với hoặc không giống như mục đích mà chủ nhân của
những hiện tượng ấy trình diễn trước công luận. Ngày nay, khi lợi ích nhóm, lợi
ích cục bộ, lợi ích cá nhân… trá hình hoặc công nhiên can thiệp vào các kế
sách, thì giá trị nào chi phối các động cơ của con người cũng không quá khó để
nhận diện. Dư luận và báo mạng gần như than vãn hàng ngày về những lợi ích đằng
sau một số dự án, công trình, kế hoạch… Cái điều chỉnh hành vi của những người
vụ lợi trong các công trình dự án đó, hẳn không phải là những lợi ích quốc kế
dân sinh. Không hề quá nếu nói rằng, đôi khi những thành tích quốc kế dân sinh,
rất tiếc, lại chỉ là hệ quả của một lợi ích khuất tất khác. Chẳng phải ngẫu
nhiên mà Hội nghị TW 4 mới đây đã phải ra Nghị quyết nhằm chặn lại hiện tượng “suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện phai nhạt lý
tưởng, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Thậm chí, Nghị quyết chỉ rõ, hiện tượng tệ hại đó đang “thách thức vai trò lãnh
đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Bởi vậy, nói lệch lạc về giá trị
có thể cũng còn là nhẹ.
Nếu động cơ tối
thượng thúc đẩy sự ra đời ồ ạt của các trường đại học những năm vừa qua nằm
ngoài sứ mệnh thiêng liêng của giáo dục, thì giá trị thực dẫn dắt và điều chỉnh
hoạt động của những trường đó, trước hết, hẳn không phải là tri thức, cũng
không phải là nâng cao dân trí hay đào tạo nguồn nhân lực. Và, cũng từ đó, nếu
động cơ thúc đẩy người học đến trường không phải là tri thức… thì giá trị điều
chỉnh hành vi của người học hẳn cũng không thể là trí tuệ, hay cao hơn, học để
làm việc, làm người. Nhà trường và người học gặp nhau ở điểm này – mục tiêu cao
nhất trên thực tế chỉ còn là mảnh bằng. Bằng thật, đương nhiên, nhưng kiến thức
thì giả hoặc gần như giả. Ai đó nói vương quốc giả dối đã lên ngôi cũng không
hề quá.
Hiện nay giá trị
nào ở ta được tôn vinh xếp ở bậc thang cao nhất trong bảng các giá trị làm
người. Rất tiếc, dù ít ai công khai thừa nhận, lại chính là “làm quan”
và giàu có. Tôi không nghĩ làm quan và giàu có không phải
là các giá trị đáng được trân quý. Nhưng làm quan và giàu có là
những giá trị cao hơn mọi giá trị khác, xếp đầu bảng trong bảng các giá trị,
được tôn vinh từ công sở đến gia đình, thì ở đây đúng là có sự lệch lạc. Dĩ
nhiên, những người thực sự mơ được làm quan và được trở thành giàu có không
nhiều. Nhưng tôi nói bảng giá trị lệch lạc, vì biết rằng không ít cá nhân đã
phải lỡ dở về sở trường sở đoản cá nhân, phải hy sinh niềm đam mê riêng của
mình về văn chương, nghệ thuật, khoa học, hay thậm chí nhàn tản… để lao vào làm
giàu và phấn đấu làm quan, vì nếu không như thế thì khó mà chịu nổi tiếng thở
dài của vợ con, bố mẹ và những người thân, trước khi hứng chịu sự chê bai của
xóm giềng, đồng nghiệp và xã hội. Người thành đạt được cộng đồng thừa nhận, ở
ta, trước hết phải là người giàu có, hoặc “làm quan”, rồi mới đến các “tước vị”
khác. Giải thưởng quốc tế và quốc gia về chuyên môn, dẫu có một không hai, cũng
chưa phải là cao, nếu người nhận giải vẫn nghèo khó hoặc là người nằm ngoài
vòng hoạn lộ (宦路). Nghệ sỹ tài ba, nhà khoa
học tiếng tăm, người thày mẫu mực… cũng không tránh khỏi bị người thân và đồng
nghiệp đo bằng thu nhập và chức vị.Tình trạng này
nếu còn kéo dài thì quả thực là nguy hiểm.
Giải pháp hữu
hiệu và triệt để cho căn bệnh nói trên, cũng là giải pháp hữu hiệu và triệt để
cho mọi căn bệnh khác ở Việt Nam
trên đường chuyển đổi để phát triển, theo tôi, là công khai tất cả những gì có
thể công khai và loại trừ bằng được lợi ích cục bộ.
Ở tầm vĩ mô, tôi
nghĩ đây là giải pháp trị được tận gốc mọi cái xấu trong xã hội. Mọi giải pháp
khác chỉ là hệ quả của giải pháp này trong những lĩnh vực và hiện tượng cụ thể.
Giải pháp này đụng đến cơ chế, xuyên qua các chính sách, gây sức ép đến từng
người và tất cả các thiết chế xã hội, nên nó buộc cái xấu phải trả lại cho
luật pháp tính nghiêm minh của luật pháp, trả lại cho văn hóa tính nhân văn của
văn hóa, trả lại cho kinh tế tính chính đáng của lợi ích kinh tế, và trả lại
cho chính trị tính “vị dân” của chính trị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét