Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Người Việt vội vã nhưng tiến chậm

Hà Nội tắc nghẽn, một phần do cơ sở hạ tầng yếu kém, một phần do tính “vội vã” của người dân. Nếu ai đã từng tham gia giao thông ở Hà Nội sẽ thấy, khi đường bắt đầu dồn ứ ở một làn, mọi người lập tức lao sang làn bên kia, cho dù ai cũng biết sang làn bên kia là phải “đối đầu” với các xe trái chiều. Tuy nhiên, chúng ta không đợi được, không chờ được vì trước mặt chúng ta là một khoảng trống. Quán tính giục chúng ta lao lên, tưởng nhanh được một chút, nhưng hậu quả là “đối đầu”, “bịt nút chai”, và tất cả vừa hít khói bụi vừa nhìn nhau nhăn nhó.

Ảnh: người Việt có quán tính tiến lên, không thể dừng, đợi? (nguồn: internet)
Ảnh: người Việt có quán tính tiến lên, không thể dừng, đợi? (nguồn: internet)


Trong lịch sử, chúng ta có nhiều cuộc cách mạng. Đã là cách mạng thì vừa nhanh vừa triệt để. Có thể, tinh thần đó vẫn để lại di chứng trong mỗi chúng ta. Hà Nội có kế hoạch chặt cây mục, cây chết, cây “không đạt chuẩn”, nhưng thay vì lên một kế hoạch thay dần trong 10 năm, 20 năm để không ảnh hưởng đến diện tích cây xanh, cảnh quan đô thị, chúng ta làm cái “rụp”, đốn hạ hàng trăm, hàng nghìn cây, biến Hà Nội thành một công trường. Bỏ qua những khuất tất mà ngành thanh tra đang phải vào cuộc, rõ ràng quán tính muốn làm nhanh cộng với năng lực giám sát yếu kém đã dẫn đến việc làm ẩu. 

Tâm lý làm “cách mạng” cũng xuất hiện trong nhiều cuộc cải cách, từ giáo dục đến nông nghiệp nông thôn, từ nếp sống văn hóa đến công nghiệp hóa hiện đại hóa. Chúng ta không biết rằng, cho dù đây là thời đại của công nghệ, mọi thứ có thể làm nhanh và rộng hơn ngày trước, nhưng có những cái chúng ta không thể vội được, đặc biệt khi chúng ta chưa có được một viễn cảnh rõ ràng, thực tế về cái đích chúng ta muốn đến. 

Thử hỏi cái đích của nền giáo dục Việt Nam là gì để từ đó làm nền tảng cho cải cách? Chúng ta đang loay hoay quanh cái vỏ, từ tranh cãi bậc đại học quan trọng hơn hay bậc tiểu học cần kíp cải cách hơn; chúng ta tăng môn này, bỏ môn kia; cấm học thêm, tăng học ngoại khóa; bỏ thi tốt nghiệp, gộp thi đại học. Tất cả những thay đổi “dồn dập” này chỉ là vẽ lại sơn cho cái vỏ còn cái quan trọng nhất là triết lý giáo dục vẫn chưa có lối thoát. Một bạn trẻ khi tham gia các phong trào thanh niên khu vực chia sẻ: “đoàn thanh niên Việt Nam nhiều khi bị lép vế lắm, thanh niên các nước khác họ đặt câu hỏi, phản biện ầm ầm, còn thanh niên mình nghe hiểu đấy nhưng không biết nói làm sao. Chắc do giáo dục anh ạ, học ở trường toàn nghe lời thầy cô chứ có được phản biện để có tư duy độc lập đâu.” 

Còn chương trình nông thôn mới với 19 tiêu chí được phổ biến cho tất cả các địa phương để triển khai đồng loạt. Chẳng biết cái “mới” ở đây là gì, nhưng các địa phương thay nhau theo chuẩn, đường làng nhỏ chưa đạt chuẩn thì chặt cây, đổ thêm bê tông cho rộng; cổng làng cổ không đủ rộng, thì gỡ xuống làm cái cổng trào sơn màu mè cho mới. Không biết có phải chương trình muốn dùng vỏ bê tông để thay áo cho văn hóa làng xã vốn bị coi là “manh mún”, “lạc hậu”, “sau lũy tre làng” không. Tuy nhiên, văn hóa đâu có thể thay đổi bằng cách mạng được, văn hóa phải biến đổi từ từ qua giao lưu tiếp xúc, qua thay đổi của không gian kinh tế, đô thị và kết nối vùng miền. Nếu áp đặt từ ngoài vào thì chúng ta lại quên bài học duy ý chí trong đối xử với văn hóa rồi. 

“Muốn nhanh thì cứ phải từ từ” nghe như là mâu thuẫn nhưng thực tế cho thấy đúng là như vậy. Muốn đường không tắc, thì thay vì lao vội vào làn đối diện chúng ta chờ đợi cho người trên thoát rồi thong thả đi tiếp. Muốn tạo ra những con người tốt thì chúng ta hãy cẩn trọng vạch ra viễn cảnh giáo dục khai phóng, rồi từ từ thiết kế nội dung và phương pháp giảng dậy thay thế để đạt được nền tảng vững chắc. Kinh nghiệm cho thấy chúng ta không thể “đốt cháy giai đoạn” được, chúng ta cần nền tảng vững chắc làm sức bật, nếu không, chúng ta không thể bật cao, bật xa, mà còn bật sai hướng! 

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

Nhà Trần thời hậu chiến

 Vương Trí Nhàn

Trên con đường lấy lịch sử để giải thích hiện tại, có một việc tôi đang muốn dành thời gian để  làm là đọc lại sử nước mình những năm sau chiến tranh – ta hay gọi là hậu chiến.
Câu hỏi đặt ra hôm nay: đánh xong quân Nguyên, xã hội VN thời nhà Trần ra sao? Và tôi tìm thấy một số tư liệu như sau.
Dưới con mắt Đào Duy Anh 
Trong cuốn Lịch sử VN- từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX,  Đào Duy Anh dành hẳn một chương, chương XXV, nói về Bước suy đốn của nhà Trần, trong đó nói rõ việc đầu tiên Trần Nhân Tông cho làm sau khi quân Nguyên rút lui năm 1285 là duyệt lại hộ khẩu trong nước.
Để làm gì? Theo Đào Duy Anh, để tìm cách “lấy tiền của mà tu bổ những tổn hại do chiến tranh gây nên.”
Tiếp đó, Đào Duy Anh kể ra nhiều việc nhà Trần đã làm sau 1288, nhằm “ra tay bóc lột nhân dân thêm nữa”.
“Ngay năm 1290, sử đã chép có nạn đói lớn [….] Sau khi đã ra sức tham gia kháng chiến trong quân đội hay trong dân quân, người nông dân thấy đời họ không được cải thiện mà lại còn bị bóc lột hơn xưa, họ rất lấy làm bất bình mà đã rục rịch phản đối. Không thể dùng ngay thủ đoạn khủng bố, Trần Khâm ( tức Nhân Tông—VTN ) lại nghĩ ngay đến việc dụng binh đối với các nước nhỏ láng giềng  để đánh lạc hướng bất bình của nhân dân” (Sđd, bản của Nxb Văn hóa Thông tin, 2002, tr. 258-259)
Theo cách miêu tả của Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh
Trên đây tôi đã bắt đầu từ cuốn  sử của Đào Duy Anh.
Khốn thay là từ 1958 tới 1980, Đào Duy Anh bị vướng vào vụ Nhân văn  nên các tác phẩm của ông, kể cả cuốn trên, không được in lại. Tuy một số phương diện tư tưởng của ông có được các học trò xuất sắc ở thế hệ sau … tiếp tục, nhưng thực tế là người ta càng ngày càng xa rời cái chiều hướng mà Đào Duy Anh theo đuổi để đi vào một thứ sử học đơn giản và vụ lợi, cốt phục vụ các mục đích chính trị trước mắt.
Cũng may mà những năm trước 1975, tình hình cũng chưa đến nỗi hoàn toàn bi đát.
Theo dư luận chung, một trong những cuốn xuất sắc nhất thời ấy là  Lịch sử chế độ phong kiến VN của khoa Sử đại học tổng hợp viết trước 1975, cuốn I sách này dành để viết về VN trước thế kỷ XV.
Nhưng tôi hiện không có cuốn đó trong tay, chỉ đành dựa vào bộ Lịch sử Việt Nam quyển I, tập II, bao quát giai đoạn từ thế kỷ VII tới 1427 của Khoa Sử Đại học sư phạm, nxb Giáo dục Hà Nội, 1970.
Ở  cuốn sách này, tôi tìm được những trang sử mà mình muốn biết và muốn mọi người cùng biết.
Sau chương V nói về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, chương VII cuốn sử do Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh biên soạn mang tên Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV.
Ngay phần mở đầu chương, cùng với việc nêu rõ tầm cỡ chiến thắng, các tác giả viết:
“…ba năm chiến tranh ác liệt chống chọi với kẻ địch nổi tiếng về tính chất cướp bóc và phá hoại đã để lại những hậu quả quan trọng cho sản xuất và đời sống nông dân. Liền sau đó hai năm 1290, 1291 là những năm đói lớn, một thăng gạo trị giá một quan tiền, nhiều người dân phải bán ruộng đất và con trai con gái để lấy lương ăn.”(tr 258)
Hoàn cảnh hậu chiến khó khăn, hẳn không ai lạ gì. Các nhà sử học tôi muốn giới thiệu trong bài này chỉ hơn hẳn các nhà sử khác là không lảng tránh mà coi đó là một đối tượng cần phải miêu tả.
Trong sự hạn chế của một nền sử học viết trong hoàn cảnh 30 năm chiến tranh, họ dường như muốn cảnh báo trước về những khó khăn mà con người hậu chiến hiện đại sẽ phải chịu đựng.
Theo sự chỉ dẫn của các tác giả, người ta được biết những năm đó, nguy cơ của một cuộc xâm lược lần thứ IV của quân Nguyên vẫn chưa hết.
Nhưng có cái lạ mà khi đọc lại chúng tôi hết sức ngỡ ngàng, đó là chỉ hai năm sau, lập tức vua và quí tộc nhà Trần đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược các nước láng giềng ở phía Tây và phía Nam, tức Ai Lao và Chiêm Thành.
Và có ít đâu, cuộc chiến Việt Nam Ai Lao thời ấy kéo dài hàng nửa thế kỷ ( xem tr. 260), mà cuộc chiến với Chiêm Thành lại còn dây dưa lâu hơn – trận chiến cuối cùng mà quân nhà Trần tiến hành ở Chiêm Thành là vào 1396 (tr.263).
Các bộ lịch sử VN viết trong những năm chiến tranh có thói quen ca tụng tất cả những cuộc chiến tranh mà ông cha ta đã tiến hành trong quá khứ.
Nhưng ngay ở đoạn viết về cuộc chiến tranh sang đánh Ai Lao của Trần Nhân Tôn  năm 1290 và 1294, các tác giả của Khoa Sử trường Đại học Sư phạm đã vượt ra ngoài thói quen đó.
Các ông nói rõ đây là những cuộc hành binh phi nghĩa.( Tr 259)
Nhìn lại cả  một thế kỷ chiến tranh ở mặt trận Tây – Nam, các tác giả bảo rằng nó đã huy động “những khả năng lớn lao của dân tộc” chỉ “để thỏa mãn những tham vọng về đất đai uy thế và quyền lực” của vua chúa thời ấy mà thôi( sđ d tr 263).
Để miêu tả đến cùng tâm lý bệnh hoạn mà vua chúa thời ấy mắc phải,  các tác giả  Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh lại còn ghi lại một cuộc bàn bạc trong triều đình nhằm tố cáo lý do giả tạo mà ông vua vừa chiến thắng quân Nguyên nêu ra để buộc mọi người làm theo ý mình.
Ở tr 259, sách kể khi đánh Ai Lao, bầy tôi có người can ngăn rằng giặc Nguyên vừa mới rút lui, vết thương chưa hàn gắn được, không nên gây việc binh đao, thì vua trả lời đại ý rằng “sau khi giặc rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã của ta mỏi mệt, có ý coi thường, cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác”.
Tóm tắt tình hình chinh chiến với Chiêm Thành,  các tác giả cho biết:
“ từ 1361, quân nhà Trần lui dần vào thế phòng ngự, chuyển cuộc  chiến tranh ở đất nước người về đất nước mình, nhân dân lao động phải gánh chịu những thảm họa của chiến tranh trực tiếp và ghê gớm hơn.”
“…sức sản xuất bị đình trệ  và có lúc bị phá hoại nặng nề đưa đến nạn đói lưu niên. Chỉ tính từ 1290 đến 1379 đã có 13 lần đói trầm trọng…(tr. 265)
Xét chung tình hình quốc gia, xưa nay dân ta hay nói sau khi chiến thắng quân Nguyên, đây là giai đoạn “ngàn năm thăng bình”.
 Thăng bình là từ cũ nay ít dùng. Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Mộng Hùng ( S. 1975) lý giải là “lên cõi bình trị trên toàn đất nước”, tiếp đó ghi lại câu thơ Nguyễn Khuyến “ “Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo” làm dẫn chứng .
Nhưng theo các tác giả cuốn sách đang nói, tình trạng thăng bình — và nghĩa giản dị hơn là một cuộc sống yên ổn — không đến với dân chúng.
Cuộc sống “an cư lạc nghiệp mà người dân Đại Việt muốn sau những năm chống quân Nguyên căng thẳng, không thể tìm thấy được trong cả thời gian rất dài gần hết thế kỷ XIV” ( sđ d tr. 264).
Tại sao vậy? Tạm nêu  lý do:
a/ Bao trùm trong những người quản lý quốc gia là  tâm lý đắc thắng kiêu ngạo “ bụi Hồ không dám động”.
b/ Khi đã mất hết cảm giác chính xác về thời cuộc, tầng lớp quí tộc cầm quyền những năm sau chiến tranh tự cho phép mình rơi vào ăn chơi sa đọa.
Có thể hình dung sự ăn chơi của vua quan nhà Trần thời hậu chiến  là vô cùng bỉ ổi, bởi họ có lý có lẽ hẳn hoi.
Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách có ý thức.
Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa” – trong một bải thơ  vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).
Ta hãy chú ý đến một khoảng cách là 40 năm hậu chiến.
Đây là thời Dụ Tông.
Tiếp theo AnhTông (1293-1314), Minh Tông(1314- 1329) Hiến Tông (1329—1340), vị vua này trị vì từ 1341 – 1369.
Lịch sử Việt Nam của Lê Thành Khôi viết ở bên Pháp từ 1950 và mới được dịch ở ta 2014, trong  chưa đầy hai trang ngắn ngủi nói về sự suy tàn của nhà Trần ( tr 225-227), cũng phải đề cập tới Trần Dụ Tông.
Ông vua này được miêu tả là người “chỉ nghĩ đến rượu chè chơi bời và phung phí công quỹ vào việc xây cung điện.”
Trở lại với cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP, thời kỳ Dụ Tông nhiều chùa tháp và cung điện được xây dựng. Vua sai đào hồ lớn ở vừờn ngự,  chất đá thành núi, bốn mặt khai sông cho nước thông vào để làm chỗ vui chơi. Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông chở nước mặn về chứa vào hồ để nuôi hải sản (tr 263-264).
Thời kì Dụ Tông cũng là thời kì những kẻ bất tài khéo nịnh được thăng quan tiến chức, viên chính chưởng phụng ngự Bùi Khoang giả vờ uống hết 100 thưng rượu mà được thăng tước.( tr 264)
Từ những ghi chép và bình luận của Ngô Thì Sĩ
Trên đây là mấy tài liệu lấy ra từ các bộ sử đương đại. Dưới đây là các bằng chứng xa xưa hơn.
Khi nói về các bộ cổ sử, người ta phải nói tới Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu và Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu còn giới thiệu một vài bộ sử khác, bộ nào cũng có những khía cạnh mới.
Một tác giả như Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đã mang lại cho cổ sử những ghi chép người khác hoặc bỏ qua, hoặc ghi không rõ, và nhất là những bình luận độc đáo, mang dấu ấn một tư duy sử học gần với con người hiện đại.
Chung quanh thế kỷ XIV mà chúng ta đang nói, đọc vào cuốn của Ngô Thì Sĩ thấy nhiều ý tứ phê phán mạnh bạo hơn, nên trong bài này tôi muốn cùng bạn đọc lần vào các trang  sử của người thân sinh Ngô Thì Nhậm, với sự lưu ý trước rằng, nhiều chi tiết có thể đã thấy ở cuốn Toàn thư, cũng như ở  Cương mục.
Tài liệu tôi dùng lần này là bản Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch của Viện nghiên cứu Hán Nôm, in 1997.
Xin phép bắt đầu bằng cách  nói tạt ngang về một chuyện có liên quan tới sự lạ lùng của ĐVSKTB.
Gần đây báo chí nói nhiều tới việc Nhân Tông thượng hoàng (trị vì từ 1279 tới 1293) đi tu.
Một lần khoảng 2010, gặp nhau ở Sài Gòn, anh Trần Đĩnh —  bằng sự lịch lãm của một người đã qua sống qua ba chục năm chiến tranh và hết sức thông thạo mọi đường ngang ngõ tắt của các trung tâm quyền lực – đã giải thích với tôi, chắc là Nhân Tông thấy chiến tranh khủng khiếp quá, nên tìm cách tách mình ra khỏi thời sự mà suy nghĩ đấy thôi.
Cũng là một cách ghi nhận tâm lý hậu chiến!
Thật thú vị khi đọc Ngô Thì Sĩ lại bắt gặp một ý tưởng tương đồng.
Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân Tông, tác giả ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra trong hành động đi tu này vài ý nghĩa tiêu cực.
Ngô Thì Sĩ viết “Vua Nhân Tông tinh thông kinh điển, vốn có giác ngộ, trong thiên hạ không vật gì đáng bận tâm. Nhưng đường đường là đấng thiên tử mà ẩn náu nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm hôm cùng một hai nhà sư trên núi không có hám của cải,  sống trong cảnh thái bình cho đến hết đời, công nhiên dùng Phật học mà dẫn dắt con cháu, đưa cả thiên hạ vào giáo lý đạo Phật, lỗi ấy không gì lớn hơn. (Tr 394 sđd)
Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ XIV.
Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta chỉ có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ đen tối và  thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong lịch sử nước ta.
Sau khi Nhân Tôn bỏ việc đi tu, người kế tục ông là Anh Tôn đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng.
Các sách sử cũ đều viết và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi Thượng hoàng Nhân Tôn từ Thiên Trường về Kinh sư, mọi người trong ngoài đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say, Thượng hoàng đi xem khắp cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.
Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban đêm ngồi kiệu cho mười hai người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy mới về cung” (Tr 394 sđd )
Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ Tông.
Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.
Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ  có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tông tinh còn mà thần mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.
Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ  lại viết thêm:
“Cho dù Chu Văn Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)
Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính chung cả hàng ngũ vua quan đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh hùng có công, nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.
Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.
Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn toàn hư hỏng.
Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một sự so sánh:
+năm 1296, một viên quan thượng phẩm là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).
+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại gọi người vào chơi bạc, để mưu đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi”.
Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm tiền.
Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).
Theo cách miêu tả của  Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới và cả dân.
ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra từ đời vua cha là Minh Tông. Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm được ngọc quý, vua gả ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy vợ lẽ và ở với vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than phiền của em, Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách  ra lệnh tịch thu toàn bộ của cải.
Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất rõ:
+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ.
+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở trong vườn.
+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.
Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,– nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc — cũng không tìm được niềm vui tương tự.
Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có thể nói là vui mà quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp  “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là người lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.
Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử chuyển trí tuệ khôn khéo ấy để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong” (tr 456).
Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi của các nhân vật quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích rượu, ham âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).
Về đức hạnh của các quan đầu triều đương thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.
Ông này thường “cùng với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo, không nghỉ chút nào, được thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở tiệc đầy năm cho con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có món ăn cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd tr. 431).
Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354 có nạn đói, ngoài ra nhân dân lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Vương tên là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam Sách.
Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?
Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành, các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là nhiều lần người Chiêm đã vào cướp phá cả những vùng như Thuận Hóa, và quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân Chiêm đến sát kinh sư. Đến đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.
Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị người trong nước đánh đuổi, vua Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất bại, Chế Mỗ chết trong cảnh đơn độc trên đất Việt.
Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các quốc gia  không được phép.
Nhìn chung về đội ngũ quan chức của nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc Nguyên, chả ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan nát trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có người hiểu biết mà cố vấn cho vua.
Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:
“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6 lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần. Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy từ mùa xuân đến mùa thu núi lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là không có. Trời phạt tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng, thế mà cha con vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ trên không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu giúp thời cuộc, coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc người không biết lo.( VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng không ra lề lối, ngôi báu nhà Trần suýt di chuyển về họ Dương” ( tr 448).
Mấy điều tổng kết tạm thời:
I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ được quy kết vào lịch sử chống ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu chiến của người đương thời đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị lảng tránh.
Điều đó có thể  giải thích như sau:
I/ Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa thực sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là một xã hội sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.
Đối với các sử gia đương đại, nó càng chứng tỏ chúng ta chỉ mới có một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt. Dù đã mấy chục năm ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản cũ, cách làm cũ.  Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người hiện đại.
II/Khi miêu tả các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, các nhà sử học hôm nay thường chỉ ghi chép những điều tốt đẹp mà không ghi những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại.
Mà mất mát đau thương nhất của chiến tranh ở VN là gì?
Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức là bộ khung xã hội thì trở nên suy đồi  không thể cứu vãn.
Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực của quan chức trong thời chiến.
Cái đó thì đáng trọng thật.
Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội.
Được làm vua thua làm giặc, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản lí đất nước.
Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.
Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường chỉ học lỏm về một số phương diện văn hóa; còn  chính bộ phận văn hóa quyền lực là phần văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.
III/Một thực tế của các vương triều hình thành sau khi chiến thắng là chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi bại đi rõ rệt. Trên đã nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý xã hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến không mấy khi là những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là thế. Sau này là Nguyễn Huệ. Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn hèn kém bấy nhiêu.
Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở Việt Nam chỉ có giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều đời và có văn hóa. Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm được các triểu trước và tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là  bước tiến bộ của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các sử gia Hà Nội trong 70 năm qua,  thì triều Nguyễn lại không hề được quan tâm và rút kinh nghiệm. Chỉ toàn những lời đả kích phê phán.

 http://hocthenao.vn/2015/05/29/nha-tran-thoi-hau-chien-vuong-tri-nhan/

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Văn hóa giao thông: Đừng “nhè” mãi vào ý thức người dân!

Trung Thuần (Hà Nội) | 07/05/2013 09:36

(Soha.vn) - Tình trạng ùn tắc giao thông hiện nay một phần là do lỗi từ ý thức của người dân, song đó không phải là tất cả.

Tôi còn nhớ từng có một cuộc Hội thảo tầm cỡ quốc gia về văn hóa giao thông (tổ chức ngày 8/9/2010 tại Hà Nội) có sự tham dự của những người khá tầm cỡ song cũng không nêu được định nghĩa “Thế nào là văn hóa giao thông?”.
Trong nội dung của cả buổi hội thảo, dễ dàng nhận thấy đối tượng được nhằm đến để trừng phạt, để giáo dục, để cải thiện văn hóa giao thông là người tham gia giao thông, là nhằm đến ý thức người dân, là đổ hết nguyên nhân gây nên tình trạng giao thông hỗn loạn như hiện giờ cho họ.
Bao nhiêu “tội lỗi” của “người dân” đã được kể ra cho… bằng sạch: Nào là xe cộ tranh nhau từng bước, phóng nhanh vượt ẩu, lên xe khách thì tranh chỗ, rất ít khi thấy nhường chỗ cho các cụ già, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ có thai... Ngoài ra còn xuất hiện những cuộc đua xe bất chấp cảnh sát giao thông và tính mạng người đi đường. Đây không chỉ là sự yếu kém về văn hóa trong giao thông mà thực sự là sự suy thoái trong văn hóa ứng xử giữa người với người...
Rồi có người hiến kế: Muốn có “văn hóa giao thông”, cần phải giáo dục ý thức văn hóa giao thông ngay từ gia đình, từ các khu dân cư trường học, ngay từ khi trẻ mới chập chững. Tại cuộc Hội thảo, “gây sốc” nhất là một biểu thức của Giáo sư Vũ Khiêu: Trừng phạt + giáo hóa = Văn hóa giao thông (?!).
Văn hóa giao thông: Đừng “nhè” mãi vào ý thức người dân!
 
Theo quan niệm chung của các nước, văn hóa giao thông được cấu thành từ các yếu tố sau:
- Nằm ở tầng cốt lõi của hệ thống kết cấu văn hóa giao thông và không thể không hàm chứa phần trí tuệ, sáng tạo chính là sự hình thành nên văn hóa ngành nghề, làm đẹp hình ảnh ngành giao thông của các cán bộ nhân viên giao thông.
- Nằm ở tầng giữa của hệ thống kết cấu văn hóa giao thông là tinh thần nhân văn cùng những biểu hiện văn hóa được hình thành trong các chế độ quản lí và mô hình quản lí giao thông, được thể hiện trong các tiêu chuẩn thiết kế và qui phạm kĩ thuật cùng những thay đổi mang tính lịch sử của chúng, qua các hình thức dịch vụ, tiêu chuẩn dịch vụ giao thông và trong các pháp luật pháp qui giao thông.
- Nằm ở tầng ngoài hệ thống kết cấu văn hóa giao thông là sự phô diễn môi trường hình ảnh bên ngoài của ngành giao thông, hình thành nên thực thể cơ bản của văn hóa giao thông, là cơ sở vật chất cấu thành văn hóa giao thông.
Ba yếu tố trên có mối tương hỗ qua lại với nhau, liên thông với nhau, đồng thời chuyển hóa lẫn vào nhau ở những điều kiện nhất định, trở thành một kết cấu chỉnh thể hữu cơ đa tầng cấp, đa phương diện, đa chiều.
Như vậy, chủ thể tạo nên văn hóa giao thông là thuộc về ngành giao thông.
Xét trong thế tương quan giữa bên cung cấp dịch vụ giao thông với bên hưởng dịch vụ giao thông, thì ngành giao thông đóng vai trò chủ động. Nhắm đến người tham gia giao thông, tức chỉ mới nhắm đến phần ngọn của vấn đề.
Và, không thể có được “văn hóa giao thông” chừng nào chưa có được một nền tảng giao thông cho thật tốt. Chỉ đòi hỏi “giáo hóa” người tham gia giao thông mà không đếm xỉa gì đến hiện trạng giao thông hay dở ra sao là một sự đòi hỏi ngược, là mới chỉ trị ngọn chứ chưa trị gốc!
Rõ là vậy mà sao các cấp chủ quản khi đề cập đến văn hóa giao thông lại cứ “nhè” vào “ý thức người dân” mãi thế nhỉ?
Lạ thật!

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

Tờ trình tổng quát của nhóm Cánh Buồm

Tờ trình tổng quát của nhóm Cánh Buồm tại
ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN,
THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI
  
Thưa quý vị,
Được báo cáo trước Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc Hội về công việc của mình sau 5 năm ra đời và hoạt động quả thật là một vinh dự đối với trách nhiệm của nhóm biên soạn sách giáo khoa chúng tôi.
Nhóm Cánh Buồm chào đời vào nửa cuối năm 2009 với năm thành viên đầu tiên, được Nhà xuất bản Tri thức đỡ đầu trong cuộc hội thảo ra mắt mang tên Hiểu trẻ em – Dạy trẻ em tại Trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội.
Cánh Buồm mơ ước ấy có một mục tiêu là soạn lại bộ sách giáo khoa bậc tiểu học.
1. Nhiệm vụ tự giao
Sao lại tự giao nhiệm vụ soạn sách giáo khoa tiểu học?
Nhóm Cánh Buồm ra đời vì một ý thức được nung ủ. Cái năng lượng nạp cho Cánh Buồm, ngoài lý tưởng và năng lực tạo đổi thay cho sự sống Giáo dục, họ còn được nạp từ năng lượng tiêu cực hoàn toàn dễ cảm nhận thu gom từ sự thất vọng của xã hội trước một công cuộc Giáo dục “phát triển chẳng giống ai”.
Cả xã hội đều nhìn thấy những dị dạng của nền Giáo dục Việt Nam đương thời.
Phản ứng thì đủ kiểu.
Trước hết, có một bộ phận người dân tự tổ chức một nền Giáo dục đào tẩu – tìm mọi cách cho con em ra học nước ngoài, thậm chí “du học” từ bậc phổ thông, nếu không du học ở nước ngoài, chí ít cũng du học tại chỗ ở những trường lớp VIP. Nhóm Cánh Buồm không chủ trương như thế, chúng tôi khuyến khích sự chia ngọt sẻ bùi với dân tộc, nhất hạng trong Giáo dục càng phải nhìn xa hơn đôi ba quyền lợi vị kỷ.
Thứ hai, có những “nhà cải cách” kinh doanh một nền Giáo dục tiếng tăm. Những trường tư mở ra, mỗi trường một khẩu hiệu, chỉ thiếu một khẩu hiệu chung cho cả sự nghiệp trồng người, là điều những nhà lãnh đạo Giáo dục đang còn khất. Có cả cỡ thứ trưởng GD về hưu cũng mở trường tư kiểu “treo khẩu hiệu” như thế. Tuy kiếm tiền trên đầu con em, nhưng lại mang danh “khoa học”: một thí dụ dễ thấy nhất là việc họ bắt trẻ nhỏ “đo IQ” và thi tuyển vào lớp Một. Nhiều gia đình phải tổ chức cho con em “luyện thi” từ khi năm tuổi. Đầu vào càng khó, uy và danh càng cao. Nhóm Cánh Buồm kiên quyết không chủ trương con đường đánh tráo đó.
Và thứ ba là, có một bộ phận trí thức đáng kính kiên trì phản biện và xoay xở đủ cách, từ tác động vào Nghị quyết ở cấp cao nhất, đến tác động vào những ngôi trường ở cơ sở, hòng xoay chuyển tư duy Giáo dục và tác động tới thực tiễn Giáo dục nước nhà – xây dựng một nền Giáo dục trong mơ.  Nhóm Cánh Buồm chủ trương không “phản biện”, và càng không than vãn. Nhóm Cánh Buồm chủ trương cái gì làm được thì làm luôn. Sức yếu thì dồn sức vào “huyệt” – làm một cái MẪU – cái “mẫu” không phải như một tấm gương để “noi theo”, mà cái mẫu như một sự vật cụ thể vừa mang tính gợi ý và cũng vừa mang tính kích thích.
Tính gợi ý, đó là làm thực sự điều gì cần phải làm mà giới lãnh đạo Giáo dục chưa biết hoặc có thể đã biết mà chưa tổ chức làm được. Một việc quan trọng nhất nhóm Cánh Buồm phải làm ngay là soạn lại sách giáo khoa tiểu học các môn Khoa học xã hội và Nhân văn.
Tính kích thích, đó là làm thực sự và hết sức mình để đưa ra những đóng góp có thực, nhưng không coi đó là giá trị bậc nhất, mà luôn luôn hy vọng chính mình được đồng nghiệp vượt qua.
2. Hiện đại hóa Giáo dục
Làm thì phải có định hướng. Định hướng chấn hưng nền Giáo dục nước nhà của Cánh Buồm là hiện đại hóa Giáo dục.
Hiện đại hóa là gì? Đó không phải là bắt chước theo nước ngoài, dù là nước tiên tiến – phải xác định như vậy, vì có những ý kiến muốn dịch và dùng nội dung, chương trình của nước ngoài để cải cách nền giáo dục nước ta. Văn hóa phải có hồn cốt dân tộc, để không cho ra lò những sản phẩm lai căng.
Hiện đại hóa phải bắt đầu với trẻ em lớp Một và bắt đầu với việc tổ chức cho các em biết TỰ HỌC – năng lực tự học như một món quà duy nhất nhà giáo dục hai tay dâng tặng trẻ em để các em mang hành trang đó đi suốt cuộc đời.
Một nền giáo dục mang phẩm chất tự học cần phải và có thể tổ chức được ngay ở đây và ngay tự bây giờ và hoàn toàn không tốn tiền: cơ chế tự học nằm trong năng lực tâm trí của người học, là thứ con người hoàn toàn không mất tiền mua.
Những hình thức kích thích tính tự học của học sinh cần được tiến hành từ rất sớm. Theo sách Cánh Buồm, ngay từ lớp Ba, đã có thể cho học sinh tổ chức xemina về những đề tài hấp dẫn các em. Tới lớp Bốn, các em đã học viết đoạn văn và bài văn, trẻ em càng tham gia hình thức xemina ở trình độ cao hơn nhưng lại dễ dàng hơn.
Tinh thần tự học lại phải gắn liền với tinh thần đánh giá, trong đó tự đánh giá là vô cùng quan trọng. Đánh giá không phải là tự nhận xét, tự phê bình cuối học kỳ hoặc cuối năm học như trong nhà trường thời phổ thông 9 năm đầu những năm 1950. Việc tự nhận xét trong nền giáo dục hiện đại được “cài đặt” trong từng thao tác học tập, diễn ra trong từng tiết học, và – đây là điều quan trọng – diễn ra một cách tự nhiên, không cần “nhắc nhở”, không căng thẳng. Nó sẽ gắn với việc bỏ cho điểm, bỏ thi, những điều rồi sẽ phải diễn ra, không chỉ tiết kiệm tiền bạc và thời gian, mà còn để nâng cao Tự do và Nhân phẩm người học. Việc đó sẽ xảy ra không do hô hào, mà do tổ chức lại CÁCH HỌC.
Cách đặt vấn đề như thế dẫn tới việc xác định lại chương trình và sách giáo khoa là hoạt động cốt lõi của một sự nghiệp Giáo dục. Phải làm được sách giáo khoa không chỉ mang tinh thần tự học mà chứa đựng những kỹ thuật tự học.
3. Chương trình và Sách giáo khoa
Để cho một nền Giáo dục vận hành, cần nhiều yếu tố. Nhưng nhà sư phạm không nhất thiết phải đụng tay vào tất cả các yếu tố.
Cái “huyệt” nhà sư phạm phải bấm vào là tổ chức việc HỌC của con em thông qua tổ chức việc DẠY HỌC đúng định hướng một nền Giáo dục HIỆN ĐẠI HÓA.
Dĩ nhiên, điều đó không ngăn cản nhóm Cánh Buồm ước mơ về một ngôi trường Ba Không: không hộ khẩu, không học phí, và không bắt nạt (bằng thi cử, bằng xếp hạng, bằng lấy điểm số ra dọa nạt và mua chuộc … ). Song, tổ chức cái “Không” thứ ba thuộc trách nhiệm của mình với tư cách nhà sư phạm mà giải pháp kỹ thuật nằm trong việc tổ chức một nền Giáo dục ở đó trẻ em TỰ HỌC – TỰ GIÁO DỤC và dĩ nhiên, trong đó thay cho kiểm tra cho điểm sẽ có yếu tố TỰ ĐÁNH GIÁ.
Để tạo ra năng lực tự học cho con trẻ, cần xác định nhiệm vụ bậc học là cái “huyệt” ngành GD chưa bấm. Chúng tôi xác định Tiểu học là bậc học phương pháp. Tư tưởng đó được nhắc đi nhắc lại, nhất là qua hội thảo năm 2011 mang tên Tự học – Tự giáo dục vàhội thảo năm 2012 mang tên Em biết cách học.
Khi đã chiếm lĩnh phương pháp gốc từ bậc tiểu học, bậc Trung học cơ sở sẽ có nhiệm vụ là tự trang bị kiến thức – sao cho hết 9 năm học, trẻ em đã có thể có đủ CƠ SỞ như tên gọi của bậc học để các em vào đời theo ba chọn lựa: (a) đi kiếm sống, (b) đi học nghề, (c) học lên Trung học. Như vậy, có thể thấy là cuộc Cải cách Giáo dục cho toàn dân sẽ phải đặt trọng tâm vào bậc Phổ thong Cơ sở với hai phân khúc: (a) 5 năm đầu: chiếm lĩnh phương pháp học; (b) 4 năm sau, tự trang bị đủ kiến thức cơ sở.
Suy ra từ logich đó, nhiệm vụ bậc học của bậc Trung học sẽ là bậc tập nghiên cứu để sau đó, bậc Đại học là bậc tập độc lập nghiên cứu, dẫn tới bậc sau đại học là bậc hoàn toàn độc lập nghiên cứu. Quan niệm như thế, nên nhóm Cánh Buồm đã từng nói: Đại học nghiên cứu bắt đầu từ lớp Một!
Trong cả chuỗi học đó, yếu tố tự học hiện diện khắp nơi. Làm gì để trẻ em ngay từ lớp Một đã tự học? Bí quyết sư phạm nằm ở chỗ tìm ra những thao tác làm việc của những người tiêu biểu trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, và hoạt động xã hội để tổ chức cho trẻ em làm lại những thao tác chắt lọc mà những người đi trước ưu tú đã từng làm.
Xin lấy mấy thí dụ để minh họa:
(a)    Thay cho lối học ê a đánh vần và đọc ngắc ngứ, trẻ em lớp Một sẽ chủ động học những thao tác nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt từng được tiến hành bởi các nhà ngôn ngữ học kể từ thế hệ Alexandre de Rhodes – ba thao tác đó là phát âm – phân tích âm – tự ghi (và tự đọc).   
(b)  Thay cho lối nghe bình giảng văn chương, và sao chép những bài văn mẫu, trẻ em ngay từ lớp Một đã học những thao tác nghệ thuật tưởng tượng – liên tưởng – sắp xếp (bố cục) để chính các em tự làm ra cái Đẹp nghệ thuật vừa tầm cỡ các em.
(c)     Cũng trong cuộc tự học đó, trẻ em sẽ không nghe giảng và nhắc lại những răn dạy về đạo đức – các em sẽ được tổ chức một lối sống theo tinh thần đồng thuận như lối sống của những nhà đạo đức, những nhà hoạt động xã hội tiêu biểu.
Hoạt động học thực ra chỉ quay xung quanh trục gồm ba đỉnh ấy, và tư duy của người học cũng sinh ra từ đó: tư duy khoa học, tư duy nghệ thuật, tư duy đạo lý và không cần dạy thêm, học thêm một “tư duy” nào khác nữa cũng đủ để thành những con người tự do – trách nhiệm – tâm hồn phong phú như ước vọng của cả dân tộc chúng ta.  
4. Khác gì với quá khứ?
Nhắc lại vài điều trong “lịch sử” có khi cũng cần thiết.
Ngay từ khi ra đời, bộ sách giáo khoa Cải cách hiện hành có tên Chương trình năm 2000 (CT-2000) đã gặp rắc rồi. Các tác giả cãi nhau đó là “thay sách” hay “sửa chương trình” hay “cải cách”. May mà nó được trụ đỡ bởi bộ Luật Giáo dục thông qua nhanh gọn nên chương trình và sách đó có quyền từ năm học 2004 được “tràn ngập lãnh thổ”. Ấy thế nhưng tiếng kẻng báo động đầu tiên đã được phát đi bốn năm sau, vào năm 2008 bởi báo Tuổi trẻ, và một từ ngữ mới cũng ra đời “tràn ngập lãnh thổ” và lặp đi lặp lại: quá tải.
Có vị bộ trưởng cho cân cặp sách của học sinh, để chứng minh rằng trẻ em gò lung đeo cặp đi học không vì quá tải bởi sách của CT-2000. Sau đó, liên tiếp từ 2008 đến mãi năm học 2013-2014, năm nào cũng nói đến giảm tải – riêng ông bộ trưởng đương nhiệm còn dùng thuật ngữ giảm tải sâu. Các nhà sư phạm danh giá thì tự phê phán rằng sách CT-2000 nặng tính hàn lâm. Lẽ ra, nếu các vị thành thực nhận thấy sách giáo khoa CT-2000 nhồi nhét những kiến thức không có tính hệ thống khiến cho giáo viên không biết đường nào mà lần, và kết quả quá tải là một từ ngữ quá lịch sự, đến nỗi phải giảm tải (là một từ ngữ quá mơ hồ).
Nhóm Cánh Buồm tự giao nhiệm vụ giải quyết vụ “giảm tải” đó theo cách của mình: bỏ cái cũ, làm một cái mẫu tổ chức việc học từ bậc tiểu học những môn học khó nhất, đó là: Tiếng Việt, Văn, Lối sống, và năm nay chúng tôi sẽ cho ra mắt sách Lịch sử bậc Tiểu học. 
Nghĩ rằng Ủy ban Văn hóa – Giáo dục … không chỉ quan tâm đến ý tưởng, đường lối, mà còn muốn biết sâu vào quan điểm sư phạm cùng nội dung từng bộ môn, nên chúng tôi xin báo cáo rõ như sau.
(a) Môn Tiếng Việt
Nhiệm vụ môn Tiếng Việt là tạo ra ở học sinh một phương pháp ngôn ngữ học để các em nghiên cứu vật liệu tiếng mẹ đẻ, để có năng lực dùng ngôn ngữ chính xác, phong phú trong việc học cũng như trong đời sống hàng ngày.
Lớp Một – Ngữ âm học: nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt để tự biết cách ghi, do đó mà tự biết cách đọc, và đến cuối lớp Một thì có năng lực đọc thầm – năng lực của con người có văn hóa đọc.
Lớp Hai – Từ vựng học: nghiên cứu sự phát sinh và phát triển của Từ tiếng Việt từ khi dùng tín hiệu để “nói” cho đến khi xuất hiện từ thuần Việt, tiến lên những dạng phát triển của từ thuần Việt (từ ghép, từ láy) và sự mở rộng sang từ Hán Việt và từ mượn.
Lớp Ba – Cú pháp học: nghiên cứu câu tiếng Việt trên hai phương diện: “vỏ ngoài” cấu trúc Chủ-Vị của câu, và cấu trúc logich bên trong của câu, nhờ đó mà biết tạo ra những câu không thể sai cú pháp đồng thời có cách diễn đạt minh bạch, uyển chuyển, văn minh.
Lớp Bốn – Văn bản học: nghiên cứu và tạo ra bài văn tiếng Việt. Những tích lũy từ ngữ (lớp Hai và Ba) và những tập luyện về logich (lớp Ba) sẽ được dùng vào việc viết văn bản. Việc học viết bài văn chia làm hai giai đoạn: (a) viết đoạn văn như một bài văn thu nhỏ để tập tìm ý và xử lý ý; và (b) chuyển đoạn văn thành bài văn.
Lớp Năm – Hoạt động ngôn ngữ: ứng dụng tổng hợp năng lực ngôn ngữ học vào các dạng hoạt động ngôn ngữ trong đời sống, bao gồm ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ hành chính, ngôn ngữ xã giao trong đời sống, hàng ngày.
(b) Môn Văn
Môn Văn Cánh Buồm có nhiệm vụ lấy văn chương làm vật liệu mẫu để tạo ra ở học sinh một cơ sở năng lực nghệ thuật, thay cho cái “năng lực văn” nhại lại những cảm thụ của người khác.
Năng lực nghệ thuật của học sinh (cũng như mọi năng lực khác) đều phải do học sinh làm ra, chứ không qua nghe-nhìn dửng dưng.
Lớp Một – đồng cảm: học sinh làm lại những hoàn cảnh đem đến cho nhà văn (hoặc người nghệ sĩ nói chung) một lòng đồng cảm với thân phận con người – nhờ đó mà nhà văn và người nghệ sĩ có được cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Cách tạo lòng đồng cảm cho trẻ em diễn ra bằng những trò chơi đóng vai.  
Lớp Hai – Tưởng tượng: cũng giống nhà văn, sau khi có cảm hứng liền “lao vào sáng tác”, khi đó dù muốn dù không, dù có ý thức hay vô thức, người sáng tạo đều cần đến những thao tác bắt buộc. Thao tác đầu tiên và quan trọng nhất, đó là tưởng tượng. Học sinh lớp Hai tập làm lại thao tác đó theo định nghĩa hành dụng (định nghĩa bằng việc làm) Tưởng tượng là làm việc thầm trong đầu.
Lớp Ba – Liên tưởng: những sản phẩm tưởng tượng ban đầu còn chưa đủ ý, chưa diễn đạt hết ý tưởng của nhà văn hoặc người nghệ sĩ. Sự gọt giũa nhào nặn sẽ khiến cho hình tượng mang một ý nghĩa khác với hình tượng “thô” ban đầu. Việc làm đó của người đi trước sẽ được học sinh lớp Ba tập luyện khi học thao tác liên tưởng.
Lớp Bốn – sắp xếp (bố cục): Một hình tượng còn phải nằm trong một toàn cảnh liên quan đến các nhân vật và những tình tiết khác – chưa kể là với những vật liệu khác nhau đòi hỏi cách sắp xếp khác nhau tạo nên những thể loại khác nhau – công việc này được học sinh lớp Bốn làm lại trong thao tác sắp xếp (hoặc bố cục).
Lớp Năm – các dạng hoạt động nghệ thuật: Bốn lớp đầu của bậc tiểu học cung cấp cho trẻ em một năng lực nghệ thuật gồm một lý tưởng (hoặc một tinh thần sáng tác, một đạo đức nghệ thuật) và một ngữ pháp nghệ thuật. Lên lớp Năm, các em mang hành trang đó áp dụng vào các hình thức nghệ thuật cơ bản: âm nhạc, nhảy múa, tạo hình, thơ trữ tình, văn tự sự, và kịch.
(c) Môn Lối sống
Thay thế cho môn Đạo đức, hoặc Luân lý, hoặc Giáo dục Công dân, nhóm Cánh Buồm tổ chức cho học sinh tự xây dựng và cùng xây dựng một cung cách sống khác chắt lọc thành môn Giáo dục Lối sống (gọi tắt là môn Lối sống).
Nhiệm vụ của môn Lối sống là huấn luyện trẻ em (và “vô tình” tác động cả tới những ai liên quan đến các em) một tinh thần và năng lực sống đồng thuận trong cộng đồng.
Nhóm Cánh Buồm không định nghĩa đồng thuận bằng lý thuyết dài dòng, mà định nghĩa bằng việc làm để học sinh SỐNG trong những yếu tố tạo thành sự ĐỒNG THUẬN: (a) cùng lao động theo cương vị khác nhau; (b) cùng chia sẻ những giá trị tinh thần có thể khác nhau; (c) cùng phát hiện và tháo ngòi xung đột.
Lớp Một – sống tự lập: Mục tiêu của lớp Một là tổ chức cho trẻ em sống tự lập. Chúng ta không tổ chức việc đó như một thứ “quy chế”. Trái lại, ngay từ lớp Một, trẻ em phải biết nhà trường em đang học là một xã hội với ba thành phần: (a) Giáo viên; (b) phụ huynh; và (c) học sinh. Cần tổ chức cho trẻ em sống tự lập trong bối cảnh đồng thuận giữa ba thành phần đó. Và sản phẩm sống tự lập của trẻ em sẽ là “phép thử” sự đồng thuận ở cộng đồng trường học đó có đúng nghĩa hay chỉ là hình thức.
Lớp Hai – sống đồng thuận trong cộng đồng: Lên lớp Hai, học sinh được học những nguyên tắc lớn về cuộc sống của cộng đồng. Từ trải nghiệm lớp Một – tổ chức sự đồng thuận giữa giáo viên, phụ huynh và học sinh để các em được cái quyền sống tự lập (cái quyền mà có khi chính các em cũng từ chối) – học sinh đến với những nguyên tắc chung sống cộng đồng. Từ lớp này, nguyên lý đồng thuận sẽ được các em nhìn nhận một cách có ý thức hơn so với ở lớp Một.
Lớp Ba – sống đồng thuận trong gia đình: mục tiêu của giáo dục Lối sống ở lớp Ba là giáo dục cách sống đồng thuận trong gia đình. Đó cũng chính là một cộng đồng, ở đó cùng lao động, cùng chia sẻ giá trị tinh thần, và nguyên tắc phát hiện – tháo ngòi xung đột được thể hiện một cách hết sức nhân bản.
Lớp Bốn – sống đồng thuận trong tổ quốc và nội dung Lớp Năm – sống đồng thuận trong nhân loại là những nội dung nhóm Cánh Buồm chưa biên soạn xong vì nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan – trong đó có nguyên nhân chưa thực nghiệm đầy đủ.
(d) Môn Lịch sử
Môn Lich sử xưa nay được đưa vào nhà trường phổ thông chỉ như là những tư liệu lịch sử ở dạng thô, sau đó thả nổi về phương pháp, tùy giáo viên nhào nặn theo ý thức và khả năng của mình.
Sách Lịch sử do nhóm Cánh Buồm biên soạn có đặc điểm là chỉ rõ ra những việc làm của học sinh khi các em học Lịch sử. Các giáo viên từ đây có thể căn cứ vào việc làm của học sinh đã cho sẵn trong sách giáo khoa để tổ chức các tiết học lịch sử – sự khác nhau giữa các giáo viên sẽ chỉ là giữa “năng lực thô” dễ dàng phổ cập cho từng giáo viên và “năng lực tinh” của mỗi người làm nghề.
Có bốn việc làm của học sinh khi học Lịch sử:
1.    Việc 1: Tiếp nhận sử liệu.  Sử liệu được tiếp nhận như là những “vật tự nó” đối với mọi người. Việc đọc, và nhất là đọc thầm, được dùng để học sinh tự làm việc này.
2.    Việc 2: Nhập thân vào sử liệu.  Công việc này sẽ tiến hành thuận lợi vì học sinh học Văn Cánh Buồm đều được luyện các thao tác tưởng tượng qua trò chơi đóng vai, qua kịch câm và kịch nói. Học sinh sẽ vào vai các nhân vật lịch sử trong những bối cảnh có kịch tính.
3.    Việc 3: Bài học lịch sử của em: Phải có những bài tập để học sinh tự rút ra bài học lịch sử chứ không chép những kết luận do giáo viên hoặc sách đưa ra. Đây là một thí dụ: Em đi thăm đền thờ Hai Bà Trưng ở Hạ Lôi, em khấn Hai Bà một điều gì, em ghi lời khấn đó vào vở. Hoặc: ngày Tết, em đi ngang gò Đống Đa, em nói với Sầm Nghi Đống một điều gì, hãy ghi lại.
4.    Việc 4: Góc sưu tầm của em: đây chính là phần tự học thêm, các tài liệu sưu tầm đi từ tranh ảnh, phim, cho đến những tư liệu nghiên cứu. Một khi học sinh ngay từ bậc tiểu họcđã thích sưu tầm tư liệu lịch sử cho riêng mình, thì đoan chắc các em sẽ tiếp tục hứng thú và kỹ năng đó khi học lên cấp trên.
Về chương trình chung của môn Lịch sử,  nhóm Cánh Buồm đề nghị chia việc học Lịch sử ở bậc phổ thông thành ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn tiểu học (học từ lớp Ba) – Nội dung Lịch sử gồm hai phần: (a) khoa học khám phá sự tiến hóa của con người; (b) những trang sử hào hung với những nhân vật đẹp, những hành động kiệt xuất. Mục tiêu là tạo ra tình yêu Lịch sử, do đó mà yêu và nhớ sử liệu.
Giai đoạn phổ thông cơ sở – Nội dung Lịch sử là bằng một tình yêu sự thật mà đi tìm tính chính xác của sử liệu – càng quan trọng, đó là đi tìm tính chính xác của sử liệu do chính học sinh thực hiện. Sách giáo khoa đưa ra những tư liệu gốc như một sự khơi mào. Học sinh tự thâm nhập vào sử liệu, tự các em tìm những sử liệu được coi là trung thực để rút ra những bài học lịch sử xứng với tầm hiểu biết của các em.
Giai đoạn trung học phổ thông – Nội dung Lịch sử sẽ là những vấn đề triết học lịch sử, những “tại sao” của Lịch sử. Tại sao chiến tranh? Tại sao có tôn giáo? Tại sao có giàu nghèo? Mục tiêu lý tưởng ở bậc Trung học này là học sinh vừa được giải đáp thắc mắc đồng thời vẫn giữ được những thắc mắc không giải quyết nổi để ”ôm mối hận” đó mà đi vào đại học…
5. Triển khai thế nào?
Sau khi đã trình bày cả chương trình cùng sách giáo khoa Cánh Buồm, có câu hỏi sau: sách Cánh Buồm có khả thi không?
Dĩ nhiên, chúng tôi nói “Có, hoàn toàn khả thi”, trong khi có thể rất nhiều người sẽ nói “không”. Nhưng nhóm Cánh Buồm thì tin vào sức mạnh của cuộc sống thực, căn cứ từ mấy điều sau.
Một là, chắc chắn xã hội sẽ đòi hỏi phải làm một điều gì đó ngay bây giờ vì đã quá muộn. Chắc chắn xã hội không thể để mặc cho các trào lưu Giáo dục đào tẩu Giáo dục tiếng tăm hoành hành bằng công việc “cải cách” Giáo dục riêng của họ bởi họ và cho họ. Nhưng phải có cái gì đó để thay thế cho cái “nền giáo dục mang hơi đồng tiền” ấy? Nhóm Cánh Buồm đã có sẵn đây một cái gì cao hơn, tầm nhìn xa hơn, và gần với việc tự học của con em hơn, với lý tưởng chấn hưng được nền văn hóa dân tộc Việt.
Hai là, chắc chắn xã hội sẽ đòi vứt bỏ cách làm giáo dục theo lối “giảm tải”, thậm chí giảm tải sâu CT-2000. Vì nếu giảm tải và giảm tải sâu được thì từ khi báo Tuổi trẻ cảnh báo hồi năm 2008 tới giờ chắc là đã khối người làm rồi! Cần thay bằng một TƯ TƯỞNG KHÁC VÀ CÁCH LÀM KHÁC. Nhóm Cánh Buồm đã dự liệu chuyện đó và đã sẵn sàng một cái MẪU khác hẳn.
Ba là, xu thế của đời sống ngày càng cởi mở sẽ đi xa hơn và nhanh hơn quyết định hành chính “Một chương trình nhiều bộ sách”. Nhóm Cánh Buồm đã mở nhiều cuộc hội thảo và nhiều cuộc sinh hoạt sư phạm hàng tháng thu hút vô số người quan tâm. Đó sẽ là lực lượng tiềm năng đón nhận sản phẩm Cánh Buồm.
Có những dấu hiệu cho thấy nhóm Cánh Buồm không ảo tưởng.
Bà nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã cảm nhận được trình độ CAO và KHÁC HẲN song dễ thực thi của sách Cánh Buồm. Từ năm 2012 bà đã động viên chúng tôi: “Chị không nói sách của nhóm các em là tốt nhất, nhưng cho tới nay chưa có bộ sách nào bằng”.     
Bất chấp việc có hai người lên tiếng rằng nhóm Cánh Buồm phạm luật, bà Nguyễn Thị Bình yêu cầu Bộ GD và ĐT tìm hiểu công việc của nhóm. Ngày 3 tháng 2 năm 2012, Vụ Tiểu học tiếp và nghe Nhóm trình bày. Bà Bình kiểm tra lại. Một thứ trưởng thưa với bà rằng “anh em báo cáo là sách tốt, nhưng cao”. “Cao” mà là khuyết điểm, thì nên chọn cao hơn là chọn ưu điểm là sự lùn tè!
Bà Nguyễn Thị Bình, và ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó ban Tuyên giáo Trung Ương tìm cách đưa bộ sách tiểu học Cánh Buồm vào dạy thử ở Hội An từ năm học 2013-2014. Tại cuộc họp ở Ban Tuyên giáo TƯ, có mặt người của Sở GD-ĐT Quảng Nam, ông Vũ Ngọc Hoàng khen nhóm Cánh Buồm là “tập thể lao động cộng sản chủ nghĩa” – chắc là không chỉ nhằm nâng cao phẩm chất chính trị của chúng tôi. Song việc vẫn không xuôi, hình như bà Nguyễn Thị Bình và ông Vũ Ngọc Hoàng còn quá cả tin.
Hôm nay, trước một Ủy ban của Quốc Hội trực tiếp chăm lo cho công cuộc chấn hưng Văn hóa – Giáo dục, cho phép nhóm Cánh Buồm báo cáo về những ân nhân của chúng tôi:
Về sự ủng hộ tuyệt vời về tinh thần (và có khi cả về vật chất) của 
-        Ông Trần Thế Tôn, thương binh hỏng mắt mặt trận Quảng Trị thông qua trợ lý đã đọc được kỹ toàn bộ sách Cánh Buồm, đã trực tiếp đến gặp nhóm Cánh Buồm để động viên chúng tôi;

Và các vị
-        Vũ Ngọc Hoàng (ban Tuyên giáo TƯ); Chu Hảo và Nguyên Ngọc (quỹ văn hóa Phan Châu Trinh); nhà xuất bản Tri thức giúp ra đời Tủ sách giáo khoa Cánh Buồm và Tủ sách Tâm lý học Giáo dục Cánh Buồm; Patrick Michel và Patrick Girard, hai vị giám đốc Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội, liền trong 5 năm đã giúp tổ chức mỗi năm 2 kỳ hội thảo; Viện IDECAF Thành phố Hồ Chí Minh đã hai lần giúp giới thiệu sách của Nhóm; giáo sư Cao Huy Thuần đã giúp mời giáo sư Alain Fenet tham gia phản biện các sản phẩm Cánh Buồm;

Ngoài ra nhóm Cánh Buồm cũng nhận được thêm hỗ trợ bằng tiền của:
-        Bà Nguyễn Thị Bình; Giáo sư Hoàng Tụy; giáo sư Ngô Bảo Châu; Khoa học gia Thái Văn Cầu và Phùng Liên Đoàn (Hoa Kỳ), hai gia đình Đan Mạch và Na Ụy (giấu tên); vợ nhà thơ Hoàng Hưng; các cô giáo Nguyễn Trần Diễm Linh và Nguyễn Ngọc Điệp; các ông Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Viết Dũng, Lê Quốc Quân; gia đình Trung tướng Trần Độ; vợ chồng bác sĩ Nguyễn Kim Cương; các nhà báo nhà văn: Hoàng Hưng, Giáng Vân, Trung Dân, Phạm Lưu Vũ; họa sĩ Trần Trung Chính; các doanh nhân: Nguyễn An Kiều, Nguyễn Trần Bạt, Trang Cà phê, và ông Đặng Lê Nguyên Vũ (tập đoàn cà phê Trung Nguyên) ngoài việc cho tiền còn cho trụ sở sinh hoạt khoa học sư phạm hang tháng…

Nhờ những giúp đỡ kể trên, nhóm Cánh Buồm có điều kiện in sách mỗi năm. Sách in ra phần lớn dùng làm quà (có khi thu lại được tiền) cho các nhà nghiên cứu hoặc các vị muốn dùng để dạy con em hoặc muốn nâng cao chất lượng công việc nhà giáo tiểu học. Tất cả các tác giả và dịch giả sách Cánh Buồm cho tới nay đều không lấy nhuận bút. Tất cả tiền quỹ đều quay về nhóm dùng vào việc in sách mới hoặc tái bản.
Năm 2014 này, vào ngày 15 tháng 10, tại Trung tâm Văn hóa Pháp L’Espace sẽ lại có cuộc giới thiệu sách Cánh Buồm đã chữa lần thứ ba, cuộc Hội thảo mang tên CAO HƠN, XA HƠN, … VÀ DỄ TỰ HỌC HƠN. Tự tên gọi đó đã nói gần đủ những điều cần nói. Sách Cánh Buồm năm 2014 sẽ hết sức dễ dùng cho cả người dạy cũng như người học.
Cảm nhận được sự nóng lòng chờ đợi ngoài xã hội, nhìn trước được xu thế phát triển, nhóm Cánh Buồm chủ động đi trước nghiên cứu mẫu chương trình và sách giáo khoa tiểu học cho cuộc Cải cách Giáo dục nhất thiết phải tiến hành.
Chúng tôi không biết mình nên kiến nghị gì. Những kiến nghị sẽ có tác dụng gì. Chúng tôi không vận động hành lang điều gì. Chúng tôi tin vào quy luật vận động của sự vật. Chúng tôi tin vào những quyết định đúng lúc của cuộc sống thực. 
Và cuối cùng, đây mới là tâm tư và nguyện vọng chính thức của chúng tôi, những nhà giáo tự nguyện làm mẫu Cải cách Giáo dục: không nghĩ nhiều đến “thành công” và “thắng lợi”, mà chúng tôi lo lắng nhiều hơn đến việc mình càng ngày càng phải nghĩ đúng và làn đúng. Ngay từ khi thành lập, nhóm Cánh Buồm đã tỏ rõ mình phải Hiểu Trẻ em – Dạy Trẻ em (tên Hội thảo ra mắt 2009). Tiếp đó là Chào lớp Một (2020), là Tự học – Tự giáo dục (2011), và Em biết cách học (2012)… Đầu năm 2014, cũng ra đời cuố sách đầu tiên của Tủ sách Tâm lý học Giáo dục Cánh Buồm với kế hoạch tiếp nối là những đầu sách dịch Jean Piaget, Howard Gardner và Lev Vygotsky. Ba cây đại thụ Tâm lý học đó là những cái mẫu – lại MẪU! – kích thích những nghiên cứu trẻ em, và là trẻ em Việt Nam của Dân tộc Việt Nam trước sứ mệnh dắt tay các em đưa các em tự giáo dục thành những con người Việt Nam tử tế.
Xin trân trọng cám ơn.
                                                                                Phạm Toàn, người sáng lập
                                                                      Nguyễn Thị Thanh Hải, trưởng nhóm
                                                                                                    Nhóm Cánh Buồm

(Báo cáo do Phạm Toàn chấp bút và chịu trách nhiệm)

Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

NÓI LẠI VỀ HỘI LÀNG

 Nguyễn QuốcTuấn - Viện nghiên cứu tôn giáo

Hỏi
Lễ hội là gì, nó biểu hiện chocái gì? Nó có ý nghĩa hay là giá trị như một biểu trưng của văn hóa của cáccộng đồng? Nó có có vị trí như thế nào với đời sống của các cộng đồng?
Trả lời:
Về mặt từ nguyên, LỄ HỘI là mộtcách gọi ghép, chuyển dịch từ thuật ngữ Rite trong các ngôn ngữ Châu Âu. Lễ vàHội có nội hàm khác nhau, nhưng gắn bó với nhau trong một không gian và thờigian nhất định, nhất là trong trạng thái tồn tại của nó ở Việt Nam cho đếntrước năm 1945. Thuật ngữ Rite là một từ chuyên của Kitô giáo, rồi dần mở rộngra cả ngôn ngữ thông thường và rồi là khái niệm khoa học. Trong nghĩa ở chung,Rite có mấy nội dung:
- Lễ chuyển tiếp của một conngười, một đời người (rites of passage)
- Lễ cộng đồng, cùng nhau thờ cúng (communal rite)
- Lễ cầu nguyện và hành hương của cá nhân (rites of personal devotion andpilgrimages)
Lễ nghi ở các tộc người và các nước đều có từ một, hai hoặc cả ba nội dung.Nội dung thứ nhất, ba liên quan chủ yếu đến vòng đời ở một con người. Nội dungthứ hai liên quan đến cộng đồng. Ở Việt Nam thì lễ nghi liên quan đến cộng đồngthực sự quan trọng, và là trung tâm của một hình thái biểu hiện sự tôn kính củamột cộng đồng (theo quy mô làng cổ truyền) mà người Việt xưa gọi là HỘI. 
Nhà dân tộc học trứ danh Từ Chiđã sơ đồ hóa mô hình Hội làng thành ba vòng tròn đồng tâm: vòng trong cùng lànghi thức tế (Lễ), vòng giữa là hội và vòng ngoài cùng là cộng đồng làng (hiểutheo nghĩa cả không gian làng và tập hợp dân cư trong đó).
Xã hội Việt Nam cổ truyền hằngnghìn năm gắn với nền văn minh nông nghiệp hay văn minh thực vật như một nhàdân tộc học Pháp nổi tiếng mệnh danh. Mô hình xã hội cơ bản của Việt Nam tronghằng nghìn năm đó là mối quan hệ: NHÀ (bao gồm cả dòng họ) - LÀNG (tập hợp củanhiều dòng họ, gia đình) - NƯỚC, do đó Lễ và Hội ở Việt Nam cũng đi theo môhình xã hội đó. Tức là có Hội làng, Hội vùng và Hội do Nhà nước quân chủ tổchức và chủ trì. Việc sùng bái thần linh trong chế độ nhà nước quân chủ cũngphải đi theo mô hình xã hội cơ bản đó: thần làng - thần vùng - thần quốc gia,theo một trật tự đẳng cấp: hạ đẳng thần - trung đẳng thần - thượng đẳng thần.Điều đáng lưu ý, vị thần ở làng được vua phong bằng sắc (sắc phong), và ngườinghiên cứu về sau gọi là thành hoàng làng. Thành hoàng làng là một tập hợp cácvị thần có nhiều nguồn gốc khác nhau, có vị thần là do dân tự thờ (có nguồn gốcrất xa xưa và thường là các vị thần tự nhiên, cây, đá…), có vị thần là anh hùngcứu nước, người đỗ đạt cao, cũng có vị thành hoàng là một người có dấu hiệu đặcbiệt nào đó có liên quan chặt chẽ với vận mệnh của làng… nhưng đều đã được nhànước công nhận. Thành hoàng là một tên gọi có gốc Trung Quốc, vốn chỉ ở cácthành thị, nhưng sang đến Việt Nam thì đã trở thành thần bảo hộ của môi trườngnông thôn. Như vậy, cả hệ thống thần nói chung và thành hoàng làng nói riêng đãđược tích hợp trong một hệ thống có tính thống nhất cao, phân rõ lớp lang vớiđẳng trật đã nói ở trên.
Nghi thức tế tự do đó sẽ đi theomột trật tự tiểu tự - trung tự - đại tự (nghi thức tế tự). Nói cách khác lànghi thức tế tự được tích hợp và thống nhất từ cấp làng lến đến cấp quốc gia.Nói cách khác nữa, cộng đồng làng sẽ mở rộng dần phạm vi và tính quy mô lên đếnquốc gia. Hội làng có chung nhau bản chất và đặc trưng với hội quốc gia, chỉkhác nhau về mức độ và quy mô mà thôi.
Vậy Hội làng chính là biểu trưngcho tính cộng đồng, tính thống nhất và hướng thượng của cư dân Việt. Thành viêncủa một làng, cũng là của nước, thông qua hội, tạo ra niềm cộng cảm, giải tỏaẩn ức và mâu thuẫn vì chung nhau tôn thờ một vị thần, một hệ thống thần thốngnhất, không chia cắt.
Nói cách khác, chức năng của hộichính là liên kết cộng đồng, cố kết cộng đồng, trên cơ sở đó, liên kết xã hội,củng cố sự ổn định quốc gia.
Như vậy, cái mà chúng ta gọi làlễ hội thực chất theo truyền thống chính là các hội làng, hội vùng và hội mangtầm cỡ quốc gia.
Và đến đây, cần nói rõ ra điềunày mà bấy lâu nay chúng ta vẫn nhầm lẫn và mập mờ, các hội lễ thời quân chủ làphần cốt lõi của hoạt động tâm linh, hướng thượng, lấy qui mô làng làm đơn vịcơ sở. Đó chính là hình thái tồn tại của cái mà người Phương Tây gọi là “tôngiáo”. Và quả thực, các nghiên cứu của họ đều dùng thuật ngữ tôn giáo để mô tảhiện thực hội lễ cổ truyền của Việt Nam. Vậy, ta có thể xem đây chính là tôngiáo của ông cha ta ngày xưa. Như thế, ta đã có thể hóa giải được câu chuyệnlúng túng về có hay không “tôn giáo” của người Việt Nam, vốn hay được coi chỉtừ khi các tôn giáo bên ngoài du nhập mới đích thực là tôn giáo, còn người mìnhchỉ có “tín ngưỡng”, rồi lâu nay thêm “dân gian” và gọi là tín ngưỡng dân gian.Với tôi, đây là một nhầm lẫn tai hại vì nó là một trong những nguyên nhân phávỡ tính thống nhất của hệ thống thần linh cổ truyền ở nước ta, dẫn đến sự tồntại bị xé lẻ, vụn vặt của thần linh các làng, và đó là nguyên do dẫn đến sự hỗnloạn trong việc xác lập các loại hình lễ hội của thời nay. Ngoài ra, hội làngcòn có chức năng trao truyền văn hóa, giáo dục bằng biểu tượng thiêng và niềmcộng cảm giữa các thành viên.
Hỏi:
Lễ hội phải gắn với niềm tin, vớicái thiêng, vậy lâu nay chúng ta thấy rất nhiều hoạt động văn hóa, thể thao rầmrộ mà được gọi là lễ hội, lễ hội mới, nhưng không có tín điều, không có gianthiêng, theo ông đó có phải là lễ hội?
Trả lời:
Vâng từ đây, ta có thể dùng từ lễhội để nói chuyện mới. Lễ hội mới đương nhiên là không giống với hội làng chođến hội quốc gia xưa kia.
- Trên kia đã nói có một sự thốngnhất về bản chất và biểu trưng trong các lễ nghi và hội cổ truyền từ cấp làng đếncấp quốc gia theo một tôn ti trật tự thần linh. Cái thiêng được biểu hiện dướidạng thần linh là cốt lõi của hoạt động tâm linh theo sơ đồ: cái thiêng - thầnthoại - niềm tin (tôn giáo) - nghi lễ - cộng đồng luân lý và đạo đức. Đó là tôngiáo cổ truyền của chúng ta.
Lễ hội mới lại không đi theo sơđồ này. Có thể có sự thiêng liêng, nhưng tkhông có niềm tin một cách tôn giáovào sự thiêng liêng đó. Có thể có thiêng liêng nhưng không có thần thoại đểgiải thích. Có thể có nghi lễ, nhưng vì là nghi lễ không dựa trên một niềm tincó tính chất tuyệt đối đối với đối tượng tôn thờ, nên không thể gọi đó là niềmtin tôn giáo. Có thể tạo ra cộng đồng trong thời gian và không gian nhất định,nhưng đó không phải là cộng đồng luân lý và đạo đức giống như hội làng.
Xã hội hiện đại có nhu cầu trìnhdiễn đông người về một sự kiện nào đó, nhưng đó không phải là hội làng, hộivùng và hội quốc gia. Nó không được xâu chuỗi bởi cảm giác tôn kính, thiêngliêng. Nó không tạo ra các chuẩn mực cho thế ứng xử dựa trên niềm tin tuyệt đốivào một hay nhiều vị thần linh như những quy ước chỉ dẫn tư duy, tình cảm vàtâm lý. Nói cách khác, nó không có tính chất tôn giáo.
Cho nên, ta chỉ có thể gọi đó làlễ hội theo nghĩa trình diễn (festival) hơn là lễ hội theo nghĩa hội truyềnthống.Hỏi:Hỏi:
Sau nhiều chục năm cố tình lơ là“bỏ quên” nhu cầu sinh hoạt lễ hội, khoảng hơn hai chục năm trở lại đây, vớinhận thức mới của Đảng, Nhà nước, các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng trở nêncông khai và rầm rộ hơn. Sự phục hưng này cơ bản là tín hiệu tốt đối với sinhhoạt văn hóa – Tinh thần của người dân. Hầu hết các lễ hội cổ truyền được phụchồi, thậm chí còn xuất hiện nhiều lễ hội mới với hình thức như là cổ truyền.Tuy nhiên, từ nhiều năm nay đã có tình trạng “tha hóa” lễ hội. Nhìn từ các gócđộ khác nhau, từ văn hóa, tâm linh, xã hội, đạo đức chúng ta đều có thể nhìnthấy điều đó. Với tư cách là một nhà nghiên cứu về tôn giáo – tín ngưỡng, ôngcó nhận định như thế nào về tình trạng lễ hội hiện nay?
Trả lời:
Tôi đồng ý với cách anh đặt rakhái niệm “tha hóa” lễ hội.
Chúng ta có thể thấy sự khởi sắcđến mức ồn ào của sự phục hưng lễ hội cổ truyền, nhưng như tôi đã nói, sự phụchưng đó là trên nền tảng chúng ta sau nhiều chục năm dưới chính thể mới đã tháorỡ toàn bộ tính thống nhất của hệ thống cũ. Kết quả của sự xé lẻ đó đã dẫn đếnsự phục hung một cách tự phát, mạnh nơi nào nơi đó làm. Có chỗ giữ được vì kýức còn mạnh mẽ. Có chỗ đã cóp nhặt, bắt chước, đua đòi để hội của làng mìnhkhông thua chị kém em. Chưa kể, các yếu tố văn hóa mới đã xâm nhập vào phầnhội, ồn ào, mất đi vẻ thuần khiết của sự ổn định tâm thức vui chơi cổ truyền. Đólà chưa kể sự đố kỵ, đua đòi, tính ích kỷ, cục bộ được dịp nổi lên. Và như thế,không gian thiêng, cái thiêng đã trở thành tự phát, không còn có tính uy nghi,hệ thống của khi xưa, tức là không tạo ra được cộng đồng, niềm cộng cảm, mà chỉthấy như là có vẻ làm như cũ, nhưng tinh thần cũ đã mất đi.
Chúng ta bị mất mát rất nhiều từnhững lễ hội phục hưng như thế. Từ văn hóa, tâm linh và đó dấu hiệu chỉ báo đạođức xã hội có vấn đề.Hỏi:Hỏi:
Chúng ta có thể giải thích nhưthế nào về tình trạng số lượng người quá mê tín, mê tín đến kệch cỡm, không chỉcủa những người ít có điều kiện học hành mà của một bộ phận không nhỏ trí thứcvà nhất là quan chức? Phải chăng siêu nhiên lại trở thành thực tại vì cái thựctại, cái niềm tin đã trở nên mong manh, dễ vỡ?
Trả lời:
Ô, câu hỏi rất hay. Vâng, một khicái thiêng chỉ còn là cái vỏ, không được giáo dục, mất chuẩn mực, cùng với sựganh đua khốc liệt trong cuộc sống mưu sinh, thì dù họ có tập hợp nhau lại cũngkhông tạo ra sự cộng cảm. Chỉ là một cuộc đua bất tận để chiếm giữ ân huệ thầnlinh cho riêng mình, không kể người xung quanh thì mê tín đến mức kệch cỡmkhông là chuyện lạ. Cho tôi dùng khái niệm “mù quáng tâm linh” để chỉ tập hợpngười hỗn tạp đó.
Nhân thể, xin nói niềm tin tôngiáo và tình cảm tôn giáo ở con người là có thật. Nhưng phải được giáo dục,truyền dạy. Người ta dù học vấn cao tới đâu, nhưng vẫn có khoảng “mù” về cáithiêng liêng. Một khi không giữ được tâm thế quân bình do nhiều nguyên do, điểmmù đó lớn dần và cái thiêng liêng bỗng trở thành nơi bám víu, và họ sẽ mê tínthôi. Hiện nay có một bộ phận rất đông trong cộng đồng là cùng lúc họ tin vàthực hiện hành vi tôn giáo khác nhau. Chùa họ cũng đi, đền, phủ họ cũng đi.Thậm chí họ còn tin vào nhiều điều “lạ”. Một ngôi mộ, một hòn đá, một ông thầykhông biết theo đạo nào cả họ cũng tin, vẫn theo… một cách mù quáng. Đó là chỉbáo về niềm tin không ổn định, là níu cái cái thói quen đa thần giáo, là sựcạnh tranh phi chuẩn, lệch chuẩn trong ứng xử đạo đức chi phối. Mặt khác, cáithực dụng trong lễ hội chịu tác động mạnh từ lối sống thực dụng của cơ chế thịtrường và sự xô bồ bất ổn của đời sống xã hội hiện nay.
Sự tha hóa về lễ hội là một thựctế cần nhận rõ và cần được giải quyết.Hỏi:
Những nguyên nhân nào đã dẫn đếntình trạng này?
Trả lời:
Câu hỏi anh khó quá, có lẽ cầnnhiều nghiên cứu mới nêu rõ và đánh giá hết được. Trong phạm vi của cuộc phỏngvấn này, xin nói ba loại nguyên nhân: nguyên nhân từ thiết chế, nguyên nhân từnhận thức và nguyên nhân quản trị xã hội.
Về thiết chế, trong một thời giandài, chúng ta đã phá bỏ thiết chế và hệ thống cũ, nhưng chưa lập được hệ thốngmới vì chúng ta nhầm lẫn giữa bản chất của hội cổ truyền và lễ hội mới. Thiếtchế mới mà chúng ta cố lập là đưa cái mới vào cái cũ như là một trình diễn sựkiện hơn là một sinh hoạt tâm linh. Vả lại hệ thống nào chăng nữa cũng phải cótính đồng bộ và quan hệ chặt chẽ giữa các thành tố của nó, lễ hội mà chúng taquan niệm đã không còn như cũ nhưng lại chưa tìm được hệ thống mới. Trước sựgia tăng thờ cúng và lễ hội ồn ào hiện nay, thiết chế mà ta mong muốn khôngthấy đâu, chỉ thấy sự hỗn độn, xô bồ nổi lên.
Về nhận thức, tôi cho rằng có hailoại nhận thức quan trọng là nhận thức khoa học và nhận thức quan phương. Nhậnthức quan phương của chúng ta là cố gắng xây dựng lễ hội mới trên cơ sở kế thừahội cổ truyền, nhưng không tạo ra sự gắn kết được là bởi bản chất hai loạikhông trùng nhau. Người lãnh đạo duy ý chí trong chuyện này. Đó là bởi nhậnthức khoa học cũng chưa đi đến đâu. Nghiên cứu là phần cốt lõi của nhận thứckhoa học nhưng nghiên cứu của chúng ta đa phần phụ họa chính sách, lý thuyết,phương pháp và cách tiếp cận không đúng nguyên tắc khoa học, thiếu khách quan,ăn xổi, người này sao chép của người kia, lâu dần tạo ra một loại nghiên cứu nhợtnhạt, thiếu tính phê phán, thừa số lượng nhưng thiếu chất lượng, chẳng dùngđược vào hoạch định chính sách. Hai nhận thức này vô hình trung tạo ra một hỗnhợp nhận thức nửa quan phương, nửa khoa học mà phía quan phương áp đảo nên chỉlà các quyết sách chính trị, không phải là quyết sách trên nền tảng nhận thứcsự vật như là nó cần.
Về quản trị xã hội, chúng tathiếu cái nhìn của khoa học quản lý. Do không rõ ràng và tách bạch về vai tròvà năng lực của chủ thể và đối tượng quản lý, nên không tạo ra được tính liêntục trong quản trị xã hội. Đây là chuyện tâm linh, nhưng nhà quản lý chỉ chămchăm vào xiết lại hình thức của hội cổ truyền, đưa ra lễ hội mới không có quychuẩn, thiếu hệ thống và không tương thích với hội cổ truyền nên lễ hội của tanhom nhem, không đồng bộ và không hệ thống. Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Dulịch đưa ra con số thống kê có hơn 8.000 lễ hội cả cũ lẫn mới là một thí dụ,mặc dầu cũng có phân tạm ra thành mấy loại, nhưng loại hình học không được ápdụng các tiêu chí phân loại rõ ràng, nên không rõ về chính sách và chắp váchính sách. Kết quả là càng đưa ra chính sách và quy định, càng thấy thiếu hụt,bất cập và sửa đổi liên tục. Yếu kém thấy rõ.Hỏi:
Theo ông, chúng ta cần chống lạisự “tha hóa” này như thế nào từ quan niệm, nhận thức và thực hành quản trị xãhội?
Trả lời:
Nhìn thấy nguyên nhân tức làchúng ta cũng đã nhìn thấy câu trả lời. Nhưng hỡi ôi, đó là một công việc dàihơi, có tính hệ thống, Sửa là sửa cả ba nguyên nhân của sự bất cập hiện nay.Hỏi:
Điều kiện có tính chất tiên quyếtđể khắc phục tình trạng lễ hội vô cùng lộn xộn hiện nay là gì?
Trả lời:
Điều kiện tiên quyết à, khó nhỉ.Theo tôi, điều kiện tiên quyết bắt đầu từ chủ thể quản lý và các nhà khoa học.Chỉ có trong điều kiện nhà quản lý khắc phục sự yếu kém, thay đổi nhận thứctriệt để để tạo điều kiện và lắng nghe nhận thức khoa học mới có thể tạo ra cúhích quyết định. Nhận thức khoa học phải được tiến hành một cách bài bản, kháchquan và có tinh thần phê phán.
Vâng tôi mới chỉ nghĩ được cóthế.