Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

“LƯU MANH HÓA” HAY “LƯU MANH GIẢ DANH…” ?

Duong Dinh Giao
Từ điển tiếng Việt giải thích lưu manh là “kẻ lười lao động, chuyên trộm cắp, lừa đảo”.
Còn nhà nhiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn thì hiểu: “để chỉ những quan niệm hành động phi đạo đức, liều lĩnh, bậy bạ, rộng hơn là những triết lý “vô thiên vô pháp”, cho phép người ta dùng mọi thủ đoạn cốt đạt được mục đích.
Còn nhớ trong một truyện ngắn, nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn nói người “tiền hậu bất nhất” chính là có phẩm chất của lưu manh. Mình hiểu lưu manh vì thiếu tự trọng, vì là người không có chính kiến, “gió chiều nào che chiều ấy”, miễn sao có lợi cho mình.
Để có một lý giải đầy đủ và toàn diện đòi hỏi phải có đóng góp của các nhà xã hội học, ngôn ngữ học, … Nhưng có thể hiểu ngắn gọn, lưu manh chính là những kẻ chỉ vì để đạt được mục đích của riêng mình mà bất chấp lẽ phải, đạo lý.
Còn trí thức, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia là “người có kiến thức sâu xa về một hay nhiều lĩnh vực hơn sự hiểu biết của mặt bằng chung của xã hội vào từng thời kỳ”
Từ điển tiếng Việt định nghĩa trí thức là “Những người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình.”
Đặng Vũ Tuấn Sơn cho rằng “người trí thức không chỉ mang trong mình những tri thức không ngừng được chuyển hóa và hoàn thiện mà còn phải là người có tinh thần đóng góp cho xã hội trước hết là của cải vật chất, cao hơn là tầm tư tưởng”.
Bên cạnh học vấn, tri thức phong phú, theo Nguyễn Minh Thuyết người trí thức còn có một đặc điểm là “thường khảng khái, tự trọng. Người xưa đã khái quát phẩm hạnh này thành nguyên tắc sống: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (nghĩa là: giàu sang không làm hư hỏng, nghèo khó không khiến đổi lòng, quyền uy không khuất phục nổi). Trong lịch sử đã có biết bao tấm gương liêm khiết, chính trực, khảng khái của người trí thức. Xã hội trọng vọng trí thức không chỉ vì trí tuệ của họ mà còn vì phẩm chất cao quý này.”
Như vậy, một cách đơn giản, có thể hiểu trí thức là những người có hiểu biết về một lĩnh vực nào đấy trên mức bình thường (tài) và trung thực, khảng khái (đức).
Xã hội nhiều lưu manh là một xã hội nhiễu loạn, bất an, cuộc sống của người dân lành không được đảm bảo.
Còn xã hội mà trí thức được tôn trọng (chưa hy vọng nhiều, ra ngõ gặp trí thức) là xã hội văn minh, những giá trị tinh thần, đạo đức được tôn vinh là xã hội lành mạnh, là mơ ước của con người.
Tri thức và lưu manh có một khoảng cách xa như vậy, sao gần đây, có nhiều người nói tới hiện tượng lẫn lộn: trí thức bị lưu manh hóa và một thành ngữ mới “lưu manh giả danh trí thức”?
Từ sau 1945, nhiều trí thức Tây học (do các nhà trường Pháp đào tạo trong và ngoài nước) và các văn nghệ sĩ đã đi theo cách mạng, tham gia kháng chiến. Họ đã mang tài năng và vốn hiểu biết phong phú trong từng lĩnh vực riêng, đóng góp vô cùng to lớn cho cách mạng trong những ngày đầu còn trứng nước. Ban đầu, họ rất được trọng dụng, nắm những cương vị then chốt trong bộ máy. Nhưng không lâu sau đó, những người lãnh đạo đã thấy tư tưởng họ không thuần nhất, có nhiều biểu hiện không có lợi cho sự nghiệp cách mạng, họ không còn được trọng dụng như ban đầu. Cùng với yêu cầu phải “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”, từ nay, bên cạnh người làm cấp trưởng là các trí thức cũ, có những người dù chỉ làm cấp phó nhưng được tin cậy hơn, nắm thực quyền lớn hơn mặc dù trình độ rất hạn chế. Có số ít người để giữ cốt cách đã lặng lẽ bỏ cuộc và rơi vào quên lãng. Còn những ai dám “cả gan cầm đuốc đốt trời” thì lập tức bị loại khỏi cuộc sống .
Những trí thức đáng kính trọng dần bị vô hiệu hóa, cái đáng trách ở họ là sự im lặng, im lặng để người ta dùng tên tuổi, dùng uy tín của họ che đậy cho những việc làm không đúng đắn. Chưa dám coi đây là những biểu hiện của đám người bị tha hóa, nhưng rõ ràng họ đã không giữ được phẩm chất của người trí thức. Sự xuống cấp toàn diện đời sống tinh thần ở nước ta hiện nay có một phần trách nhiệm của các vị.
Còn phải kể tới một số người, không rõ vì nguyên nhân gì đã làm những công việc trái hẳn với lương tri của người trí thức. Họ làm sử nhưng bịa đặt ra những chuyện như đốt kho xăng, cắm cờ, …khiến cho bao lớp người ngộ nhận; có giáo sư viết rồi cho in một bộ giáo trình đồ sộ, nhưng thực ra, ông chỉ là dịch giả; họ thờ ơ, thậm chí đồng lõa trước những biểu hiện vô tình bất nghĩa, chà đạp lên những người đồng chí đã từng một thời cùng nhau “nếm mật nằm gai” chỉ vì quan điểm trái ngược. Họ sẵn sàng tung hô những giá trị ảo với mục đích làm lợi cho sự nghiệp cách mạng, … mặc dù những việc làm của họ đã khiến biết bao người lầm tưởng, dẫn tới lạc lối. Dù có trân trọng những con người có quá khứ vàng son không thể phủ nhận đây là biểu hiện hạ cấp.
Sau kháng chiến chống Pháp, nhiều trí thức được đào tạo nhờ Liên Xô, Trung Quốc, và các nước xã hội chủ nghĩa khác.… Phần lớn họ xuất thân từ những gia đình có truyền thống, đã từng ngồi trên ghế nhà trường Pháp trước đây, đã được đào tạo trở thành những người có tài năng ở nhiều lĩnh vực. Về phẩm chất, xuất thân từ những gia đình tử tế, họ cũng có những đức tính đáng quý trọng. Nhưng cuộc sống khắc nghiệt đã khiến họ không còn giữ được con người mình. Sự trì trệ của nền kinh tế, khoa học trong nước khiến tài năng bị bào mòn. Để tồn tại, họ không chỉ im lặng mà nhiều khi còn phải đồng lõa. Họ đưa ra những công trình nghiên cứu như: ngô có nhiều chất dinh dưỡng hơn gạo, phân trâu có thể dùng để nuôi lợn, …để phục vụ cho đường lối chính sách. Đổi lại, họ được tem phiếu mua hàng cung cấp ở Nhà Thờ, Tôn Đản. Rồi dần dần, để giữ lấy những vị trí của mình đã có, để tồn tại cao hơn mức đòi nghèo, họ phải tự đánh mất cái tôi như cách nói của nhà văn Nguyễn Khải. Có thể coi thế hệ trí thức này không ít người mang những phẩm chất của lưu manh.
Từ sau cải cách ruộng đất, một lớp “trí thức” mới được hình thành. Phần lớn những người được tin cậy đều xuất thân từ công nông. Chỉ cần hai năm, từ trình độ biết đọc biết viết (chưa dám nói là đọc thông viết thạo), họ học hết chương trình trung học phổ thông trong các trường Bổ túc công nông rồi thẳng tiến vào các trường đại học trong và ngoài nước qua những cuộc thi tuyển hình thức. Rồi chẳng bao lâu, họ trở thành các phó tiến sĩ cũng mang tiếng được đào tạo ở nước ngoài mặc dù với thời gian đó, không biết họ đã thành thạo được ngôn ngữ của nước sở tại? Chỉ sau một đêm, họ trở thành tiến sĩ và đã và đang là những trí thức được trọng dụng, đặc biệt là trong các ngành khoa học xã hội. Những phát ngôn của họ nhiều khi được coi là định hướng nhưng biết được quá trình tích lũy tri thức ấy, chẳng thể ai nói họ có vốn tri thức cần thiết trong lĩnh vực hoạt động của mình. Bằng cấp đối với họ chỉ để thỏa mãn tiêu chuẩn giành một ghế lãnh đạo, chứ hoàn toàn không phải vì lòng ham hiểu biết, nỗi khát khao tiếp thu và đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Rất nhiều cái bằng có được do thuê người viết, nhờ “đạo” từ đủ loại sách vở, hoặc bằng cách kẹp vào luận án do do họ đứng tên nhiều phong bì. Cho nên, đích thực họ là những kẻ giả danh.
Về phẩm chất, những khiếm khuyết do thành phần xuất thân, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh, cùng với thói dối trá chi phối toàn bộ cuộc sống đã khiến cho những con người này chẳng bao giờ tiếp cận và nói lên sự thật ngay cả trong những công trình nghiên cứu. Những phát kiến của họ chỉ nhằm chứng minh cho đường lối chính sách là đúng đắn, sự lãnh đạo là tuyệt đối sáng suốt. Họ sẵn sàng chấp hành lệnh của các cơ quan quyền lực trong lĩnh vực hoạt động của mình, bất chấp sai đúng. Vụ Nhã Thuyên mới đây là một biểu hiện. Luận văn thạc sĩ đã được một Hội đồng chấm điểm 10, rồi lại bị một Hội đồng khác, họp kín để phủ nhận chắc chắn là một cách hành xử không đàng hoàng. Rồi tác giả luận văn bị mất việc quả là một đòn đánh dưới thắt lưng. Tất cả đều không xứng đáng là cách hành xử của người tử tế. Rất tiếc trong cái Hội đồng “chuột” này có một người mang học hàm đáng kính có thân phụ vẫn được coi là một trí thức lớn trước đây.
Quả là ở nước ta hiện nay, có cả hai biểu hiện: trí thức bị lưu manh hóa và lưu manh giả danh trí thức.
Hoàn toàn không khó để nhận ra.

Trong vỏ hạt dẻ

http://5xublog.org/2014/01/19/trong-vo-hat-de/

Năm 1940.
Vào năm này chính quyền Vichy ở Pháp thân phe trục (phát xít), các nhân viên ngoại giao của Pháp ở Tokyo đạt được thỏa thuận với chính quyền quân phiệt Nhật, qua đó chính quyền Đông Dương thuộc Pháp “tề” Nhật. Người Nhật, sau khi thoát khỏi cái bóng khổng lồ của ý thức hệ Trung Hoa, đã tự mình phương tây hóa, tự chủ, lớn mạnh và thắng luôn cái bóng đen khổng lồ Trung Hoa (chiến tranh Trung Nhật Giáp Ngọ 1894-1895), thắng quân đội Nga (1904-1905), chiếm toàn bộ Triều Tiên, rồi chiếm toàn bộ Trung Hoa (1937-1945) và ở thời điểm Pháp ở Đông Dương (Indochina) tề Nhật (1940) thì Nhật đã chiếm Đông Nam Á.
Indochina rất quan trọng. Người Nhật dùng phía bắc (Đàng Ngoài, Đông Kinh = Tonkin) để làm hậu cần cho quân đội Nhật ở Quảng Tây và Vân Nam thông qua cảng Hải Phòng và đường bộ đi tới Lạng Sơn. Họ dùng phía nam (Đàng Trong = Cochinchina) để làm căn cứ hải quân và không quân . Lúc này quân đồng minh (Hoa Kỳ) đã có các hoạt động quân sự ở quanh Hà Nội và Hải Phòng, quân Nhật đã bị máy bay Mỹ ném bom.
Trong một quãng thời gian rất ngắn ở thời điểm Pháp Nhật đang thỏa thuận, ngày 22.9.1940 quân đội Nhật cùng một nhóm quân vũ trang người Việt và người Hoa (Kiến quốc quân, thuộc Việt Nam Phục Quốc Quân của Hoàng Thân Cường Để) tiến từ Trung Quốc vào Việt Nam qua Đồng Đăng, đánh thành Lạng Sơn. Quân Pháp rút chạy, rồi sau đó quân Nhật cũng rút trở lại qua biên giới. Kiến quốc quân và chỉ huy Trần Trung Lập ở lại chiến đấu, sau bị Pháp bắt và xử bắn ở Lạng Sơn. Cũng nhân biến cố này, các tù nhân của Đảng cộng sản Đông dương được Nhật thả ra từ nhà tù Lạng Sơn khởi nghĩa. Ngay sau đó Chu Văn Tấn được Hoàng Văn Thụ điều xuống nắm quyền. Cuộc khởi nghĩa này, chính là khởi nghĩa Bắc Sơn, bị Pháp quay lại dẹp rất nhanh.
Trong quãng thời gian ngắn ngủi ấy ủy ban khởi nghĩa đã thử nghiệm được mô hình chính quyền khởi nghĩa sau này được Việt Minh áp dụng khắp nơi trước khi chiến tranh Pháp -Việt (chiến tranh Đông Dương) nổ ra. Trong các thử nghiệm ấy có cả đánh du kích, phá hoại và tảo thanh (giết những người mà họ khép vào tội Việt gian). Chu Văn Tấn sau trở thành Bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng Tám.
Năm 1787.
Trước cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn rất lâu, vào năm 1787, ông Thomas Jefferson lúc này đang làm ngoại giao cho Hoa Kỳ ở Pháp, viết thư cho bạn mình là William Drayton, trong đó có nhắc đến việc mình đang đi tìm kiếm một loại giống lương thực phù hợp với thổ nhưỡng Hoa Kỳ, và ông đã tìm ra giống lúa cạn của Xứ Đàng Trong (Cochinchina) có lẽ là phù hợp, thậm chí ông còn gặp Hoàng tử của Xứ Đàng Trong.
Thomas Jefferson là người viết Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, và sau này thành tổng thống Mỹ. Hoàng tử nhỏ bé là Hoàng tử Cảnh, con trai trưởng của vua Xứ Đàng Trong là Nguyễn Ánh, lúc này khoảng 8 tuổi, đang ở cùng hoàng hậu Marie Antoinette và được bà hoàng này sủng ái. Hoàng hậu sau bị giết trong cách mạng Pháp. Hoàng tử Cảnh chết một năm trước khi vua cha lên ngôi vua toàn cõi Việt Nam với tên gọi Gia Long (1802).  Em Hoàng tử Cảnh là Hoàng tử Đảm sau nối ngôi Gia Long, trở thành vua Minh Mạng. Con cháu Hoàng tử Cảnh bị phế để tránh hậu họa.
Hoàng thân Cường Để là cháu trực hệ đời thứ tư của Hoàng Tử Cảnh và xét theo kiểu dòng đích tôn thì Cường Để mới là đích tôn của vua Gia Long.
Thomas Jefferson của Mỹ gặp ông hoàng nhỏ của Xứ Đàng Trong ở Paris là tín hiệu nhỏ bé nhưng là sự khởi đầu của nước Việt Nam trong vòng xoáy đầy biến động của thế giới. Cho đến nhà Lê, nước Việt giam mình ở mảnh đất bé nhỏ sau bị người Pháp gọi là Tonkin và chưa từng biết đến thế giới bên ngoài. Với họ, thế giới chỉ có một nền văn minh là Trung Hoa, một ý thức hệ Nho giáo, một mô hình thể chế cần bắt chước là triều đình Trung Hoa, về ngoại giao chỉ có một hình thức vương quốc vệ tinh, quan hệ với Trung Hoa theo kiểu chư hầu, và một kẻ thù “man di” là nước Chàm ở phương Nam. Các biến động tiếp theo, xuất hiện thêm phú Chúa của nhà Trịnh, rồi hình thành thêm thế lực đối nghịch là chúa Nguyễn ở đàng trong, nhưng cũng không làm thay đổi bối cảnh được bao nhiêu. Ngay cả dòng họ chúa Nguyễn mở cõi vào phương Nam vẫn không thoát khỏi cái bóng của của triều đình nhà Lê, cho dù lúc này bị nhà Trịnh chi phối. Mãi cho đến chúa  thứ 6 là Nguyễn Phúc Chu mới sang Tàu xin phong vương nhưng bị từ chối vì Tàu vẫn coi đất đàng trong là thuộc nhà Lê.
Thời trước không có cách mạng, chỉ có làm loạn. Được làm vua thua làm giặc. Làm loạn chỉ có hai kiểu. Loạn trong triều đình, quan lại làm loạn chống vua này dựng vua kia, phục vụ lợi ích nhóm. Và loạn ngoài triều đình, nhân dân hoặc cán bộ địa phương bất mãn nổi lên chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ bắt đầu là là các cán bộ thuế địa phương kiêm buôn lậu nổi chống lại quan lại triều đình, là Trương Phúc Loan, vốn là kẻ lạm quyền rồi giết vua (cha ruột Gia Long) toan lên làm vua. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lớn mạnh dần, dẹp cả nhà Nguyễn đàng trong, dẹp luôn Lê Trịnh ở đàng ngoài, chống ngoại xâm từ phương bắc, đánh cả ngoại xâm ở phương nam. Đánh xong, thống nhất gần trọn vẹn đất nước,  Nguyễn Huệ lên làm vua, rồi chết. Nguyễn Ánh vùng dậy giệt nhà Tây Sơn, lên làm vua hưởng cả cơ đồ. Nhà Nguyễn tồn tại đến đời thứ tư là vua Tự Đức thì Pháp – Tây Ban Nha nổ súng vào Việt Nam năm 1858.
Thời nhà Nguyễn  xã hội phức tạp, nhất là thời Minh Mạng cải cách hành chính. Nổi loạn khắp nơi nhưng dẹp được cả. Hoàng tộc yếu dần, quan lại lạm quyền, tham nhũng phe phái, thường xuyên qua mặt vua, bản thân quan lại chia phe tranh đấu với nhau vì lợi ích nhóm và quan điểm đối ngoại. Quân đội lạc hậu, kinh tế yếu kém, nông nghiệp mất mùa. Chính sách chống Pháp của triều đình nhà Nguyễn rất ngô nghê và tàn nhẫn: đóng cửa với thế giới bên ngoài và giết người theo đạo vô tội vạ. Các quan đại thần thay mặt vua, ký các hiệp định với Pháp. Mất Nam Kỳ (tên Minh Mạng đặt cho Xứ Đàng Trong) vào tay Pháp, rồi mất cả nước với hai hòa ước 1883, 1884.  Sau hòa ước Giáp Thân, còn gọi là Hòa ước Patenôtre Người Pháp dùng danh từ người phương tây gọi Xứ Đàng Trong để đặt cho thuộc địa mới này: Cochinchina. Miền bắc họ gọi là Tonkin (Đông Kinh) và miền trung là vương quốc Annam (nơi triều đình Huế vẫn tồn tại một cách hình thức).
Ba miền có thể chế riêng, đi lại giữa ba miền phải có visa. Sau này người Pháp tách nốt cao nguyên và người dân tộc, bắt người Kinh đi lên vùng này phải có giấy phép. Cho đến khi chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên (1945), mới đổi lại tên ba miền là Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ.
Dưới sự cai trị của nước Pháp, người Việt bắt đầu, một cách quá đột ngột, sống trong những thể chế chính trị hoàn toàn mới. Quan lại trong triều chia phe, phe chống Pháp bắt đầu khởi nghĩa. Tôn Thất Thuyết dùng danh vua Hàm Nghi khởi nghĩa Cần Vương. Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và phe triều đình thân Pháp diễn ra liên tiếp và cuối cùng đều thất bại. Cuộc khởi nghĩa cuối cùng là của Phan Đình Phùng (chết 1895). Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và triều đình thân Pháp không mang lại điều gì mới. Bình Tây Sát Tả không Bình được Tây mà chỉ Sát được Tả (người Việt theo Công Giáo). So với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn dẫn đến một cuộc nội chiến kéo dài 30 năm mà người Việt đăng lính để giết người Việt, thì phong trào Sát Tả là lần đầu tiên người dân thường giết nhau vì khác biệt tôn giáo và phe phái. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam tinh thần “yêu nước truyền thống”, tinh thần “chống ngoại xâm truyền thống” bắt đầu chuyển thành yêu nước kiểu độc quyền. Những người yêu nước khác tín ngưỡng, khác phe phái sẽ bị tiêu diệt bởi những người cũng yêu nước như mình mà khác tín ngưỡng khác phe phái.
Thất bại ắt dẫn đến tìm tòi. Như thường lệ trí thức tinh hoa đi tìm trước, và nơi họ tìm đầu tiên là ở nước Tàu. Người Tàu lúc này cũng đang loay hoay tìm  những  tư tưởng mới, mô hình mới, thể chế mới. Sau thất bại của nhà triều đình nhà Thanh trước quân đội Pháp ở vùng đất do họ bảo hộ là Tonkin (dẫn đến hiệp ước Pháp Thanh), rồi thất bại tiếp theo trước đế quốc Nhật ở một đất nước chư hầu khác là Triều Tiên, rồi họ để mất cả Đài Loan và miền bắc vào tay Nhật. Trí thức Tàu đi tìm những ý tưởng mới ở …nước Nhật của thời đại hậu Minh Trị (Meiji).
Phan Bội Châu xuất hiện trong hoàn cảnh ấy. Ông đến Nhật và có gặp trí thức cải cách Lương Khải Siêu của Trung Hoa đang lưu vong ở Nhật. Các tư tưởng quân chủ lập hiến, làm báo để thức tỉnh người dân, mở trường để truyền bá tri thức mới, …là do Phan Bội Châu học và bị ảnh hưởng của các nhà cải cách người Tàu này và ảnh hưởng của nền giáo dục Thoát Á của Nhật.
Trong những ý thức hệ mới mẻ, thổi vào đầu Phan Bội Châu, phải kể đến thuyết Social Darwinism (thuyết tiến hóa xã hội Darwin) vốn rất thịnh hành lúc bấy giờ. Thuyết này nói về đấu tranh sinh tồn của các chủng tộc, chính là lý thuyết về sau kết hợp với tư tưởng của Nietzsche đã hình thành ý thức hệ của chủ nghĩa dân tộc sức mạnh và hình thành nhà nước Phát Xít.
Phan Bội Châu nhận ra rằng, chủng tộc Việt (ông gọi là giống nòi) không thấp kém hơn người da trắng, ít nhất là cũng phải bằng người Nhật vừa mới chiến thắng người da trắng Nga, và chiến thắng người Hoa, giống như người Việt đã từng thắng Tống bình Chiêm. Tuy nhiên quý ông da vàng Phan Bội Châu đặt chủng tộc da vàng và chủng tộc da trắng bằng nhau, và cao hơn các màu da khác: “Giống vàng, giống trắng tinh anh. Giống đen, giống đỏ, giống xanh ngu hèn”.
Từ ý thức hệ này, Phan Bội Châu tìm đồng minh là các giống đồng chủng với mình (nước Nhật) và tìm một ông hoàng thuộc dòng chính thống và có ý thức chống Pháp (Hoàng thân Cường Để) để mang qua Nhật rồi lập Hội nhằm tìm cơ hội xây dựng một nhà nước của giống nòi Việt, một nhà nước mà tiếng Nhật gọi là “Kokumin kokka” vay mượn từ khái niệm nation state (nhà nước dân tộc, nhà nước quốc dân) tức là một nhà nước của nhân dân (cộng hòa dân quốc). Ý thức hệ này, được Phan Bội Châu hiện thực hóa thành một chính phủ lưu vong ở hải ngoại, dù tên của nó là Hội Phục Hồi Quá Khứ Vinh Quang của Việt Nam (Việt Nam Quang Phục Hội, 1912). Nhà nước lưu vong này có quân đội (quang phục quân) và quân kỳ – quốc kỳ (trên đó thể hiện người da vàng đấu tranh chống người da trắng), và tiền (quân dụng phiếu).  Ở hải ngoại, Phan Bội Châu là người đầu tiên sử dụng và khuếch trương tên Việt Nam (do Gia Long đặt năm 1802) thay cho Annam. Trong nước thì Nguyễn Thái Học là người đầu tiên nhắc lại tên này với đại chúng khi ông hô Việt Nam vạn tuế trước pháp trường (1930). Xem thêm “Con đường của rồng
Như vậy từ ý thức hệ Social Darwinism, Phan Bội Châu xây dựng được sách lược hành động: xây dựng nhân lực bằng du học (Đông Du), chống Pháp bằng bạo lực, xây dựng nhà nước dân tộc, độc lập, dựa vào Nhật, Trung để thực hiện, từ hải ngoại đánh vào trong nước.
Năm 1906. 
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh qua Quảng Đông, rồi lần lượt đi qua Nhật. Lúc gặp Lương Khải Siêu ở Nhật, bộ óc cải cách lớn của Trung Hoa này đã khuyên, có lẽ cả hai ông Phan, một lời khuyên đến giờ vẫn còn đúng: “Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập. Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”.
Từ đây Phan Bội Châu xây phong trào Đông Du (1905-1909) đưa du học sinh qua Nhật, còn Phan Chu Trinh xây dựng Duy Tan, trong đó có Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, theo mô hình của Fukuzawa Yukichi (1907-1908).  Hai phong trào này đều bị Pháp tìm cách dập tắt rất nhanh.  Ở thời điểm quan trọng này Phan Bội Châu đang ở độ tuổi 40, còn Phan Chu Trinh trẻ hơn một chút.
Các gia đình địa chủ ở Cochinchina là những người sớm nhận ra sự thiệt thòi của “nòi giống” Việt trong lĩnh vực kinh tế, khi mà người Pháp dành độc quyền làm kinh tế cho các tập đoàn Hoa Kiều. Họ gửi con cái của mình cho Phan Bội Châu và Cường Để, chu cấp tiền bạc cho các hoạt động của Phan Bội Châu và Cường Để. Người Nam Kì không quên công ơn dựng cõi phía nam của Gia Long và công ơn ông hoàng tử Cảnh cai trị Sài Gòn ngày xưa. Cường Để là ngọn cờ của giống nòi để người miền nam đặt lòng tin vào. Thế nhưng Nhật lúc này tuy thắng Tàu mà vẫn ở thế yếu hơn Pháp, đã nghe Pháp mà trục xuất Phan Bội Châu cùng Cường Để (1909). Cường Để lưu vong mấy năm qua nhiều nước, trong đó đáng kể nhất là bí mật quay về Cochinchina gặp người yêu và chuyến đi qua Anh Quốc cùng các thanh niên tinh hoa của nhóm Đông Du.
Theo một vài tư liệu, chính vào quãng thời gian sống ở nước Anh, nhóm Cường Để đã gặp Nguyễn Tất Thành, lúc này chỉ hơn 20 tuổi, đã từ Mỹ trở về và đang loay hoay với cuộc sống mới ở Châu Âu. Rất có thể các ý tưởng về dân chủ, quyền con người đã được nhóm thanh niên quý tộc và thượng lưu miền nam reo mầm tư tưởng vào Nguyễn Tất Thành. Trước đó, khi ở Mỹ,  Nguyễn Tất Thành đã học được kỹ năng diễn thuyết  cho đám đông từ các nhà hoạt động xã hội ngườ Mỹ da đen. Tư tưởng ấy, cách diễn đạt ấy đã đi theo Nguyễn Tất Thành tới Paris (1919), được củng cố qua các cuộc tranh luận thâu đêm suốt sáng trong nhóm Ngũ Long của Phan Chu Trinh. Lúc này Phan Chu Trinh bị chính quyền Pháp ở Indochina “cất” qua “mẫu quốc” cho lành. Chất “dân chủ Mỹ” đã đi theo cuộc đời chiến đấu của Nguyễn Tất Thành, cho dù có mai một ít nhiều, cho đến khi nó được thể hiện thành lời, cả về ý nghĩa lẫn hình thức diễn thuyết trên bản Tuyên ngôn Độc lập. Tất nhiên, mọi người đều biết, lời trích dẫn trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam, có đoạn trích từ Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ do Jefferson, người đã gặp Hoàng tử Cảnh ở Paris như đã nói ở trên. Hậu duệ của Hoàng Tử Cảnh, ông hoàng Cường Để, đã trực tiếp tác động đến suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành (ở London) và gián tiếp giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc (ở vụ ném bom Sa Diện và khởi nghĩa Bắc Sơn).
Lịch sử không một chút vô tình khi đưa người đàn ông trẻ Nguyễn Tất Thành, người ở độ tuổi  20 không đủ tiền để Đông Du, phải tây du bằng nghề bồi tàu, cuối cùng lại gặp tất tần tật những ngọn cờ đầu của Duy Tân ở Paris (1919-1923: gặp Phan Chu Trinh), của Đông Du ở London (1913: gặp Cường Để) và ở Quảng Châu (1925: gặp Phan Bội Châu).
Chưa hết, lịch sử còn tòi ra một chi tiết khác ấn tượng hơn nhiều. Lực lượng ủng hộ Cường Để ở miền trung (Annam) và miền nam (Cochinchina) tuyển mộ và xây dựng được nhiều nhân vật chống Pháp và thân Nhật. Một trong những nhân vật ấy chính là Ngô Đình Diệm, lãnh đạo quốc gia đầu tiên ở miền nam chống lại lãnh đạo cộng sản miền bắc là Hồ Chí Minh, tức là Nguyễn Ái Quốc, tức là Nguyễn Tất Thành ngày trước.
Lối đi của Phan Bội Châu, và cả Phan Chu Trinh, không sai về lối, mà sai về nguồn lực và phương thức. Cũng lối đi ấy, người Triều Tiên thành công với việc đánh đổ ách đô hộ của Nhật và họ gọi ngày này là ngày …Quang Phục (Kwangbok). Còn người Hoa thành công rực rỡ hơn nhiều với cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 của Tôn Dật Tiên: lật đổ thể chế phong kiến ngàn đời và thành lập nhà nước tư bản. Có một điều kì quặc thú vị, là chủ nghĩa Tam Dân và mô hình tổ chức kiểu Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên được các đảng chính trị của người Việt ở Indochina thuộc Pháp và các tổ chức chống Pháp ở hải ngoại (Quảng Châu) bắt chước, còn chính ông Tôn Dật Tiên này để làm cách mạng thì lại lưu vong ở …Hàng Buồm (Hà nội, Tonkin) năm 1904.  Có một điều cũng kì quặc không kém, đó là nhà nước của Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng, tức Đài Loan, được chính phủ Ngô Đình Diệm gọi là Trung Hoa (để phân biệt với Trung Cộng), rất thân với Ngô Đình Nhu. Thế nhưng  một lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, khi bị mật vụ của Ngô Đình Nhu đuổi bắt lại chạy trốn vào sứ quán Đài Loan ở Sài Gòn vì …thấy nước này cùng ý thức hệ với đảng của mình.
Ngoại trừ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nhất Linh, tất cả các nhân vật được nhắc tên ở trên đều có gốc từ vùng mà nhà sử học K.W. Taylor gọi là Thanh – Nghe – Tinh. Sử gia Taylor nhận xét và giải thích: vùng đất Thanh-Nghe-Tinh ở phía Nam vương quốc của Lê Trịnh, rồi sau đó nằm dưới sự ảnh hưởng của nhà Nguyễn. Vùng đất này không có tâm thức trung thành với hoàng gia họ Nguyễn. Đây cũng là vùng đất chống công giáo dữ dội nhất (thời Minh Mạng?). Dưới thời Pháp thuộc, nó ít bị chính quyền thuộc địa kiểm soát hơn như Tonkin và Cochinchina, lại không bị chính quyền phong kiến Annam được Pháp bảo hộ lúc đó để mắt tới. Những thanh niên đầu tiên trốn qua Trung Quốc cuối những năm 1930 để tham gia tổ chức kháng Pháp là người vùng này. Rất nhiều tiền bối cộng sản có gốc gác ở vùng này. Một trong ba đảng cộng sản đầu tiên, tiền thân của ĐCS Việt Nam, xuất phát từ đây. Chính quyền vô sản đầu tiên chính là Soviet Nghệ Tĩnh (1929-1930).  Nhiều người dân vùng này tham gia cách mạng tháng 8 và tham gia cuộc chiến tranh Pháp Việt. Chính phủ miền bắc sau 1954 sử dụng rất nhiều người gốc Thanh Nghệ. Sử gia Ho Tai Hue Tam sử dụng từ “kinship” để tả những tay hoạt động cách mạng đầu tiên, đặc biệt là các tay cộng sản  tiền bối. Kinship nghĩa là đồng chất đồng màu, là đồng hương, là đồng thổ ngữ, là tin cậy lẫn nhau.
Trong 9 đảng viên đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc tuyển mộ từ Tâm Tâm Xã ở Quảng Châu chỉ có một người gốc bắc là Lâm Đức Thụ. Người này sau bị phát hiện ra là tay trong của mật thám Pháp. Chuyện này lát nữa nói tiếp.
Năm 1908.
Sau vụ Hà Thành Đầu Độc do Hoàng Hoa Thám tổ chức , người Pháp xuống tay dẹp tất tật các phong trào yêu nước, từ Đông Du đến Duy Tân. Đóng cửa cả Đại học Hà Nội. Đồng thời lúc đó toàn quyền mới tên là Albert Sarraut xuất thân con nhà giàu có nghề gia đình là làm báo. Ông này cố gắng thay đổi quan hệ Pháp Việt từ mối quan hệ “cai trị – bị trị” thô bạo qua mối quan hệ bình đẳng và hữu hảo hơn. Trường học, bệnh viện, báo chí được sử dụng cho công cuộc cải cách xã hội từ bên trên này. Một số tờ báo và hội hè trí thức được chính phủ tài trợ ra đời, trong đó có Nam Phong của Phạm Quỳnh được Louis Marty yểm trợ chính thức. Louis Marty, có thời lên đến chức Giám đốc sở mật thám Đông Dương, là một người Pháp (có tài liệu nói Pháp lai) có tài tổ chức, giỏi cả tiếng Việt lẫn Hoa, hiểu biết sâu sắc về xã hội Việt Nam, đỡ đầu cho khá nhiều trí thức tân học, sau này bị Việt Minh coi là kẻ thù đáng sợ nhất. Vai trò nổi bật của ông này là tình báo chính trị . Một vai trò mà sau này Ngô Đình Nhu sao chép y hệt cho Trần Kim Tuyến.
Năm 1913.
Pháp suy yếu vì nằm trong vòng xoáy của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhân cơ hội này, từ Quảng Châu bên kia biên giới, Phan Bội Châu và Cường Để tiến hành đấu tranh bằng bạo động vào trong nước. Phan Bội Châu tổ chức ném bom ở khách sạn Hanoi Hotel ở Tràng Tiền năm  1913. Cường Để hậu thuẫn cho Phan Xích Long tổ chức đánh mìn ở cơ quan công quyền ở Cochinchina. Tất cả những người tham gia đều bị tử hình hoặc tử hình vắng mặt. Vua Duy Tân bị quản thúc năm 1916 do dính líu đến lực lượng nổi dậy. Thủ lĩnh nổi dậy là Trần Cao Vân bị xử tử. Duy Tân bị đưa đi đầy ở đảo Reunion một năm sau đó. Khải Định, giống vua cha là Đồng Khánh, thuộc phe thân Pháp được người Pháp đưa lên ngôi.
Thế chiến thứ nhất kết thúc. Chủ nghĩa quốc gia cơ bắp (muscular nationalism) phát triển mạnh ở Đức. Cách mạng vô sản thành công ở Nga năm 1917.
Người Pháp bắt đầu xây dựng các tuyến đường sắt ở phía bắc, miền trung và miền nam. Họ cũng mở xưởng đóng tàu. Xây cảng. Sau Thế chiến thứ nhất, các nhà đầu tư Pháp mang tiền qua Indochina để kiếm lời. Bắt đầu xuất hiện tầng lớp “thợ thuyền” và “công nhân đồn điền”. Rất nhiều lính thợ và công nhân, lúc trước tình nguyện đi qua mẫu quốc để phục vụ trong chiến tranh, bắt đầu quay về làm việc cho một nền kinh tế hậu chiến bắt đầu bùng nổ ở thuộc địa.  Một tầng lớp lao động mới ra đời dù lúc đó chưa ai biết gọi cái tầng lớp ấy là gì.
Trong A history of the Vietnamese, sử gia Taylor cho biết việc xây dựng đường sắt thành công ở Indochina vừa là niềm tự hào của người Pháp, vừa mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, vừa là đòn bẩy làm bùng nổ kinh tế ở Indochina, lại vừa là phương tiện giao thông thuận tiện mở rộng chân trời của người Việt Nam.
Theo số liệu của sử gia KW Taylor , chỉ trong vòng 10 năm sau Thế chiến            thứ nhất, tổng đầu tư ở Indochina nhiều gấp 15 lần đầu tư của 30 năm trước đó. Nền công nghiệp xe hơi thế giới cũng bùng nổ vào quãng thời gian này, khiến sản lượng cao su của Indochina tăng gấp 30 lần trong những năm 1920. Công nhân làm việc trong đồn điền cao su, từ dưới 3 ngàn nhân công, tăng lên trên 80 ngàn người. Sản lượng than tăng 300 phần trăm. Sản xuất phục vụ tiêu thụ nội địa phát triển. Xuất khẩu gạo tăng gấp đôi.
Chính trị ở Pháp cũng có nhiều thay đổi. Ngày nay ta nhìn vào chính phủ Hoa Kỳ, các tổng thống và đảng cầm quyền thay đổi thì chính sách cũng thay đổi theo. Ngày xưa chính sách của Pháp ở thuộc địa cũng thay đổi như thế. Thậm chí còn hơn, bởi nó còn phụ thuộc vào cá nhân vị toàn quyền được bổ nhiệm. Albert Sarraut và Maurice Long được coi là những vị toàn quyền ở phe cởi mở, sử dụng các biện pháp dân sự, đặc biệt là báo chí và giáo dục, để xây dựng quan hệ Pháp Việt tốt đẹp dần lên. Sau năm 1919 số trường học ở Indochina tăng lên tuy vẫn tập trung ở các thành phố lớn. Theo số liệu nhà sử học Ho Tai Hue Tam tìm được, đã có 144,300 học sinh đi học tiểu học vào năm 1921. Đến niên khóa 1924-1925 có 187,000 học sinh đi học, trong đó có 17,000 học sinh học cấp 3. Đến năm 1930 có 323,759 học sinh đi học trường công lập và khoảng 60,000 học sinh học trường tư và 3,000 học sinh học trường Pháp lycée (Albert Sarraut ở Hà Nội, Chasseloup Laubat ở Saigon và Dalat Lycee). Dân số Indochina lúc đó khoảng trên 17 triệu người.
Người Pháp ở Indochina cũng chia rẽ, có những người vẫn nặng đầu óc thực dân bóc lột, có những người có thiện cảm và tôn trọng dân bản xứ.
Một số ít thanh niên Cochinchina thuộc tầng lớp trên du học ở Pháp bắt đầu trở về. Kinh tế và xã hội ở phía nam hiện đại và cấp tiến hơn các vùng khác, do Sài Gòn trở thành thành phố thuộc Pháp từ sớm đến thời điểm này đã có khoảng 60 năm thuộc Pháp. Đã có những người Việt sinh ra và lớn lên trong bối cảnh kinh tế chính trị hoàn toàn Pháp thuộc. Gia đình họ giàu có, họ nhập quốc tịch Pháp và đi Pháp du học.
Đặc tính của mỗi dân tộc được quyết định bởi số đông trung bình (giới bình dân) của dân tộc ấy. Giới bình dân của Hoa Kỳ là những người trung lưu chăm chỉ và có tinh thần tự lập. Giới bình dân của nước ta cho đến những năm 1920 là những người nghèo khổ ở tầng đáy xã hội. Những người ở tầng lớp dưới về cơ bản là giống nhau, ít khác biệt. Tâm thức của họ không được sâu sắc lắm, nhận thức về xã hội không được mấy sáng sủa, mù mờ về chính trị, tình cảm nghèo nàn. Họ không bao giờ hiểu được những người tầng lớp trên, và khó chịu đựng được sự khác biệt. Những người ở tầng lớp trên, ngược lại, không hiểu được tình cảm, nhận thức và cả sức mạnh của tầng lớp dưới. Những người ở tầng lớp trên cũng đa dạng cá nhân, mỗi người mỗi kiếu và vì thế họ dễ chấp nhận sự khác biệt.
Năm 1917.   
Bùi Quang Chiêu sinh ra (1873) trong một gia đình bề thế, có quốc tịch Pháp.Về tuổi tác, Bùi Quang Chiêu trẻ hơn Phan Chu Trinh vài tuổi (còn Phan Chu Trinh trẻ hơn Phan Bội Châu vài tuổi). Lần đầu đi du học của Bùi Quang Chiêu rất sớm, ở Algerie, khoảng 1894. Lần thứ hai đi du học (ở trường Thuộc Địa ở Pháp?). Người ta cho rằng trong chuyến đi này, vào năm 1911, tay nhà giàu lớn tuổi đã gặp anh nhà nghèo trẻ tuổi Paul Thành trên cùng một chuyến tàu, ở hai địa vị khác nhau. Bùi Quang Chiêu đã tư vấn cho Paul Thành nộp đơn vào trường Thuộc Địa. Việc này sau đó đã xảy ra, nhưng đơn xin học của anh Thành đã bị từ chối. Sau đó Nguyễn Tất Thành đi Mỹ, đi Anh rồi đến Paris như đã nói ở trên.
Từ Pháp trở về với tấm bằng danh giá lúc bấy giờ là kỹ sư canh nông và mang trong đầu tư tưởng đấu tranh bất bạo động của Gandhi , Bùi Quang Chiêu làm việc cho chính quyền thuộc địa trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó xây dựng được các quan hệ với người Việt có tiềm năng làm doanh nhân và chính trị gia, là hai thứ rất mới mẻ và lạ lẫm với xã hội Việt lúc bấy giờ. Cùng thời với các phong trào đề cao giống nòi, chấn hưng dân tộc của hai ông Phan, Bùi Quang Chiêu đề ra phong trào đỏi hỏi các quyền lợi rất lạ lẫm với người Việt: quyền làm kinh tế, chống độc quyền kinh tế của người Hoa, quyền bỏ phiếu, quyền chính trị, vốn vẫn là quyền chỉ dành cho người Pháp da trắng. Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai sử dụng tờ báo được chính quyền Sarraut tài trợ, tờ La Tribune Indigène (1917) để phát biểu ý kiến của mình, nhưng luôn giữ cho tờ này ở vai trò phản biện, không vượt qua lằn ranh chống đối.
Bùi Quang Chiêu tổ chức các hoạt động tẩy chay hàng hóa của người Hoa, thành lập nhà máy xay gạo đầu tiên của người Việt ở Mỹ Tho để phá vỡ thế độc quyền ngành của người Hoa, mở ngân hàng đầu tiên của người Việt ở Sài Gòn. Mặt khác, do có quốc tịch Pháp, Bùi Quang Chiêu hoạt động chính trị ở “mẫu quốc” để đòi hỏi những quyền lợi cho Indochina, những quyền này cho đến tận ngày nay vẫn là các quyền dù quen tai về hình thức nhưng rất xa lạ về nội dung với xã hội: tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí.
Nhóm Lập Hiến (Constitutionalist) là một nhóm nhỏ (được cho là khoảng 30 thành viên) tập hợp quanh Bùi Quang Chiêu để đấu tranh chính trị. Đây là nhóm chính trị đầu tiên đấu tranh bất bạo động và công khai thông qua cải cách hiến pháp  để đòi hỏi quyền lợi chính trị và kinh tế cho người bản xứ. Một nhân vật bí ẩn tên là Diệp Văn Cương, được cho là thân cận với Bùi Quang Chiêu, đã soạn thảo đề xuất cải cách thể chế rất tiến bộ, từ cấp làng xã đến chính quyền trung ương, trong đó có việc tăng số ghế cho người bản xứ trong Hội đồng Thuộc địa và cải cách tư pháp bằng cách đặt ra chức thẩm phán hòa giải. Trong khoảng chục năm đấu tranh chính trị, bao gồm cả việc sử dụng hai cơ quan ngôn luận và của họ là La Tribune Indigène (Nguyễn Phú Khai) và L’Écho Annamite  (Nguyễn Phan Long) nhóm này đã đạt được kỳ tích khi chính phủ bảo hộ cho số người bản xứ được quyền bầu cử (cử chi đoàn) tăng từ 2 ngàn lên 20 ngàn (số liệu của Taylor), số thành viên người bản xứ ngồi trong Hội đồng Thuộc địa tăng lên 10 ghế, trong đó Nguyễn Phan Long giữ vị trí Phó Hội Đồng.
Trong thời gian 1917-1923 nhóm của Bùi Quang Chiêu đã phá băng môi trường chính trị ở thuộc địa, mở lối cho các phong trào chính trị của những du học sinh thế hệ sau trẻ hơn, biến Hội đồng Thuộc địa từ một định chế cai trị thành một định chế dân chủ hơn rất nhiều và biến các cơ quan báo chí được chính quyền thuộc địa tài trợ ngầm thành cơ quan phát ngôn cho chính kiến của mình. Nhóm Lập Hiến đi theo chủ nghĩa tinh hoa, không quan tâm đến giới bình dân và quyền lợi của họ, đồng thời va chạm quyền lợi với nhóm Pháp thực dân quen thói bóc lột, và không làm hài lòng các vị toàn quyền người Pháp vốn chủ trương cải cách giáo dục và văn hóa hơn là cải cách chính trị. Các xung đột này đều được “tranh đấu” bằng các phương thức văn minh hợp pháp, không sử dụng bạo lực. Ngay sau Cách Mạng Tháng Tám, Bùi Quang Chiêu lúc này đã hơn 70 tuổi đã bị Việt Minh bắt và giết cùng năm người con của mình, trong đó người con út chưa đầy 20 tuổi.
Năm 1922-1923.
Cải cách thể chế thành công năm (1922) cũng đúng vào lúc Nguyễn An Ninh, một thanh niên con nhà giàu lúc này 23 tuổi, tốt nghiệp Trường Luật ở Pháp quay về Sài Gòn và là thành viên cứng cựa của phong trào Jeune Annam (Thanh niên Annam) cùng với nhà hoạt động cánh tả người Pháp trẻ hơn một tuổi là André Malraux. Mười năm sau Malraux nổi danh với cuốn tiểu thuyết được giải Goncourt (1933), và sau Thế chiến 2 trở thành Bộ trưởng trong chính phủ Charles de Gaulle (1945).
Cũng thời gian này, một thanh niên khác, già hơn Nguyễn An Ninh khoảng 10 tuổi, và cùng là thành viên nhóm Ngũ Long với Phan Chu Trinh và Nguyễn An Ninh ở Paris, gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp rồi qua Nga (1922-1923). Tất nhiên đấy chính là Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1920-1929 ( ở Tonkin)
Ở Tonkin, một thanh niên khác , trẻ hơn Nguyễn An Ninh 2 tuổi, và không phải là du học sinh, tên là Nguyễn Thái Học, đã thành lập Đảng bí mật tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927) trên nền tảng của Nam Đồng Thư Xã. Theo nội dung trong sách của Hoàng Văn Đào, cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng,  thì có vẻ như  đảng này có ý thức hệ rất mơ hồ, vừa theo Tam Dân của Tôn Dật Tiên, vừa có mùi vị Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ai của Pháp; vừa học tập QDĐ của Tàu vừa chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu (có thời kỳ đảng này mời Phan Bội Châu làm chủ tịch danh dự). Về tổ chức Đảng này tự mày mò xây dựng theo chiều dọc: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, chi bộ. Tôn chỉ là sử dụng bạo lực lật đổ phong kiến và thực dân. Tổng bộ có nhiều ban, trong đó có ban ám sát. Ban ám sát năm 1929 đã giết một tay mộ phu đồn điền tên là Bazin, dẫn đến việc Đảng bị mật thám Pháp khủng bố tan nát khiến Nguyễn Thái Học phải quyết định khởi nghĩa non và sau đó là thất bại. Ban ám sát còn nhận nhiệm vụ giết những người trong Đảng mà bất đồng chính kiến với tổ chức, nhất là khi nhóm lãnh đạo Đảng bị phân hóa và phe ủng hộ đấu tranh bạo lực thắng phe ôn hòa. Nhân vật nổi bật của ban này là Ký Con. Kế hoạch hành động của Đảng cũng khá mạch lạc tuy còn ngây thơ do lãnh đạo đảng chủ yếu là các tay làm chính trị tự học tự làm. Họ chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là tuyển mộ, đào tạo đảng viên, sau đó đấu tranh bạo động để lấy chính quyền. Giai đoạn sau là nắm chính quyền và thiết lập chính quyền quân sự, rồi chuyển qua huấn luyện chính trị (“huấn chính”) cho xã hội theo nguyên tắc “Dĩ Đảng Trị Quốc, và cuối cùng mới là  “hiến chính”  để xây dựng thể chế pháp quyền, xây dựng hiến pháp và tổ chức bầu cử theo phổ thông đầu phiếu.
VNQDĐ phát triển mạng lưới đảng viên khá nhanh ở cả ba kỳ. Nhưng có lẽ chất lượng Đảng viên không được tốt, kỷ luật Đảng hơi kiểu hội kín Tàu, cách hành xử khá thô bạo.  Trong sách của Hoàng Văn Đào kể khá nhiều chuyện ban ám sát đi giết những đảng viên bị coi là phản đảng. Cũng có kể chuyện bí thư trưởng của đảng là Vũ Hồng Khanh vì hiểu nhầm Đội Sửu vi phạm nguyên tắc đảng đã rút súng bắn chết Đội Sửu tại chỗ bất chấp Đội Sửu là tay gộc của đảng. Ở đây có một chi tiết thú vị nữa của lịch sử. Khi Quốc dân quân, quân đội của VNQDĐ bị Pháp và Việt Minh đánh, họ chạy qua Trung Quốc. Còn quân đội cộng sản của Đặng Tiểu Bình bị Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đánh, họ chạy qua Cao Bằng. Nhưng đó là những năm sau này.
Sau vụ ám sát Bazin chưa đầy một năm, Nguyễn Thái Học khởi nghĩa Yên Bái (1930) và thất bại. Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị xử chém. Cô Bắc, Cô Giang thoát chết. Nhưng Cô Giang (Nguyễn Thị Giang) là người yêu của Nguyễn Thái Học đi về tận quê Nguyễn Thái Học, tháo đồng hồ tặng người em chồng tương lai, rồi ra đầu làng dùng khẩu súng người yêu tặng bắn vào đầu tự sát. Quốc Dân Đảng sau này sống lại chủ yếu nhờ các lãnh đạo đảng ở hải ngoại (chủ yếu là Tàu Tưởng) trở về nước tham gia hoạt động. Đồng thời kết hợp với Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh và dựa vào quân đội Tàu Tưởng của Lư Hán, Tiêu Văn.
Năm 1925-1928 (ở Cochinchina)
Trong lúc đó ở Sài Gòn, ngay sau khi về nước, Nguyễn An Ninh lập tức có các hoạt động xã hội. Theo Ho Tai Hue Tam, Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nietzche, Bergson, và Gide. Năm 1923 trên tờ báo Cloche Fêlée do chính mình xuất bản, Nguyễn An Ninh đã bộc lộ tư tưởng vô chính phủ nổi loạn của mình với bài viết mà tên của nó dịch ra tiếng Anh là “Order and Anarchy”. Cùng với các hoạt động diễn thuyết theo kiểu vô chính phủ “nihilist” từ nước Nga, Nguyễn An Ninh trở thành thần tượng của giới trẻ cấp tiến Sài Gòn, đặc biệt là các thành viên của trào lưu thanh niên cấp tiến Jeune Annam.
Khác với các tờ báo cùng chính kiến nhưng khác phe của Bùi Quang Chiêu, André Malraux (Indochine), Paul Monin (Vérité) thường đấu tranh với chính quyền thông qua đối thoại và phản biện, tờ báo của Nguyễn An Ninh kêu gọi thanh niên hành động chống chính quyền. Nguyễn An Ninh viết trên báo của mình: “Liberty is not to be begged for”. Khác với Bùi Quang Chiêu luôn gói gọn tất cả trong nhóm nhỏ theo chủ nghĩa tinh hoa (elitism) và coi thường quần chúng lao động, Nguyễn An Ninh tuy xuất thân ở tầng lớp trên nhưng lại đi vào giới bình dân của Indochina, tức là đi với nông dân, tiểu thương, giáo viên và đặc biệt là thanh niên, học sinh.  Thậm chí ông còn sử dụng cả lãnh đạo của thế giới ngầm cho các hoạt động của mình. Hình ảnh anh thanh niên nhà giàu du học ở Pháp về đi guốc mộc bán báo dạo trên đường phố Sài Gòn, hay đi xe đạp đền từng ngôi chùa ở ngoại thành để tuyên truyền đã cuốn hút người lao động.
Hơn thế, Nguyễn An Ninh có lẽ khá hào hứng với phong trào dân túy và thích thú với các mô hình hội kín kiểu Thiên Địa Hội của thế giới ngầm và cũng như các tôn giáo bình dân, nên đã có mối quan hệ đặc biệt với Cao Đài và âm thầm tuyển mộ người cho đảng kín: Thanh Niên Cao Vọng Đảng, hay còn được gọi là Đảng kín Nguyễn An Ninh.
Nguyễn An Ninh bị bắt đi tù bốn lần. Lần thứ tư thì chết trong tù. Về thực chất, Nguyễn An Ninh giống một tay hoạt động xã hội độc lập, không có ý thức hệ, không có sách lược cụ thể, không có phương pháp tổ chức đảng chính trị dù được quần chúng ủng hộ và sẵn sang đi theo. Có vẻ sau mỗi lần đi tù tư tưởng của Nguyễn An Ninh lại chuyển dần qua phía cộng sản.  Các thành viên của Thanh niên cao vọng đảng dần dần cũng chuyển hóa thành cộng sản đệ tam Stalinist: Võ Văn Ngân, Võ Văn Tần, Tô Ký. Một người khác không xuất thân từ giới bình dân là Phan Văn Hùm sau chuyển qua cộng sản đệ tứ Trotskist. Những người cộng sản đệ tứ ở Cochinchina, sau cách mạng tháng 8 bị Việt Minh giết. Nguyễn An Ninh chết ở Côn Đảo (1943), rất lâu sau này tự nhiên được phong liệt sỹ (1980).
Thời kỳ này ở Cochinchina không chỉ khai mở bầu không khí chính trị đa dạng mà còn đón nhận các ý tưởng tôn giáo mới. Đây có lẽ là thời kỳ rực rỡ nhất của một xã hội dân sự đúng nghĩa. Cao Đài hình thành (1926) ở vùng sống chung giữa người Việt và Khmer. Ngay sau khi ra đời, Cao Đài phát triển mạnh mẽ. Hoàng thân Cường Để ngầm ủng hộ Cao Đài và về sau này người Nhật dựa vào Cao Đài để kháng Pháp. Chính quyền thuộc địa sớm nhận ra mối đe dọa từ giáo phái này, bắt ngay giáo chủ Phạm Công Tắc cho đi đầy ở Madagascar và chiếm đóng  Tòa thánh Tây ninh.  Nhưng khi chiến tranh Pháp Việt nổ ra,Cao Đài tổ chức quân đội riêng và do khác biệt đường lối yêu nước và tín ngưỡng, Việt Minh đàn áp Cao Đài tàn nhẫn cho dù đạo này lúc này đã được quân đội Pháp yểm trợ. Sang thời Việt Nam Cộng Hòa, chế độ Diệm ra tay thịt thêm lần nữa, giáo chủ Phạm Công Tắc chết ở đất Cambodia.
Năm 1924-1927 (ở Quảng Châu)
Như vậy, cho đến thời điểm này chưa có một tổ chức chính trị nào đủ mạnh và đủ ảnh hưởng trên cả ba miền cũng như trên toàn cõi Đông Dương, mặc dù tất cả các đảng và hội đoàn dù ở hải ngoại hay trong nước đều đóng góp vào thay đổi rất mạnh mẽ bầu khí quyển chính trị ở thuộc địa và thay đổi nhận thức chính trị cho xã hội và người dân. Lý do chính là không đảng phái nào có đầy đủ hành trang: ý thức hệ để dựa trên đấy các lý luận hình thành ra sách lược hành động, và phương pháp tổ chức lực lượng.
Năm 1924 ngay sau Đại hội 5 của Quốc tế cộng sản (Comitern), Mikhail Brodin mang Nguyễn Ai Quốc qua Quảng Châu với vai trò thông dịch và tận dụng quan hệ của Nguyễn Ái Quốc để phát triển mạng lưới đảng ở Indochina và Siam (Thái Lan bây giờ). Lúc này Nguyễn Ái Quốc khoảng 34 tuổi.
Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện dần các kỹ năng tranh luận, tuyên truyền và làm báo. Rất khác với Bùi Quang Chiêu và hơi giống với Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng Paria (Người cùng khổ) để tuyên truyền vào lính thợ và công nhân Annam đang phục vụ mẫu quốc. Và như ở trên đã nói, họ dần dần quay về quê hương trong những năm 1920. Năm 1922-1924, do được đào tạo bài bản ở Đại học Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc nắm vững lý luận dựa trên ý thức hệ Leninist và phương pháp đấu tranh của Stalin, và đặc biệt nhất là hiểu được tính quốc tế của phong trào cộng sản. Hơn thế nữa, Nguyễn Ái Quốc còn nắm vững các kỹ năng huấn luyện và tuyển dụng, xây dựng Đảng từ cấp cơ sở. Nhưng bắt đầu từ đâu?
Ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc gặp học giả Nguyễn Thượng Huyền, thư ký và đang dần thay Phan Bội Châu lãnh đạo Hội. Nguyễn Thượng Huyền tặng Nguyễn Ái Quốc trước tác “On Revolution” của mình. Chi tiết này và nội dung sau đây lấy từ “Radicalism and Origins of the Vietnamese Revolution” nên sẽ dịch từ bản tiếng Anh thay vì dùng nội dung gốc có thể bằng tiếng Hán hoặc chữ quốc ngữ. “On Revolution” có lẽ tên Việt là “Cách mạng luận”. Tranh luận nảy sinh  giữa học giả kiểu cũ là Nguyễn Thượng Huyền và tay cách mạng với tư tưởng mới mẻ từ nước Nga: Thế nào là Cách Mạng?.
Hoàn toàn khác với Nguyễn Thượng Huyền vốn cho rằng cách mạng bắt nguồn từ tận Lão Tử, hàm ý thay đổi mệnh trời (phế thiên tử), Nguyễn Ái Quốc bắt đầu các lập luận của mình từ sự khác biệt giữa Cải cách, Tiến hóa và Cách mạng. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng phải là cái thay đổi hoàn toàn thể chế cũ (phong kiến) bằng một thể chế mới tiến bộ hơn. Nguyễn Ái Quốc đưa ra cho Nguyễn Thượng Huyền những câu hỏi khó: “Tại sao người Pháp đàn áp được người Việt? Tại sao nhân dân ta lại tăm tối? Tại sao chúng ta không phát động được cách mạng? Chúng ta phải làm gì?”.
Và đây là những câu hỏi cốt tử nhất mà Nguyễn Ái Quốc hỏi Nguyễn Thượng Huyền: “Ông đã viết 20 trang để thảo luận về cách mạng nhưng ông không nói ra được: cái gì phải làm trước khi cách mạng, cái gì phải làm trong cách mạng, và cái gì phải làm sau cách mạng”.
Từ đây với tên giả là Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông  cùng với do Liêu Trọng Khải đệ tử của Tôn Trung Sơn.  Quan trọng hơn, Lý Thụy gặp Phan Bội Châu và nhận thấy Tâm Tâm Xã (hội những trái tim cùng nhịp đập), một tổ chức hậu sinh từ Việt Nam Quang Phục Hội của nhà cách mạng lão thành này, có những thành viên yêu nước tuyệt vời và rất …”kinship”. Lý Thụy đã tuyển dụng, huấn luyện và sử dụng những thành viên cốt cán đầu tiên này để thành lập Thanh niên cộng sản luên đoàn gồm 9 thành viên bao gồm cả các tên tuổi lớn sau này như Lê Hồng Phong. Trong 9 người này có Lâm Đức Thụ không phải dân Thanh Nghệ, và đây là người tham gia bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, và Phan bị bắt cóc và đưa về Hà Nội và bị Hội đồng đề hình kết án.
Sử dụng Thanh Niên Cộng Sản Liên Đoàn làm hạt nhân, Lý Thụy mở rộng tổ chức qua các nhóm đối tượng rất cụ thể nhưng thống nhất về ý thức hệ cách mạng. Hội nhóm có tên “Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” được thành lập năm 1925 để làm cơ quan tuyển dụng thanh niên từ trong nước đi ra nước ngoài học tập rèn luyện làm cách mạng. Các lớp huấn luyện do Lý Thụy tổ chức, soạn giáo án, đứng lớp được tổ chức liên tục. Các khóa ngắn nhưng thực dụng. Học viên học xong được phân loại để cử qua Nga học tiếp ở đại học Phương Đông, hoặc gửi qua võ bị Hoàng Phố của Tưởng, hoặc gửi về hoạt động trong nước.  Báo Thanh Niên cũng được sinh ra để phục vụ tuyên truyền trong thời kỳ này. Các tên tuổi lớn  của ĐCS VN sau này đều xuất phát từ đây: Trần Phú, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn.
Các tài liệu giảng dạy được Nguyễn Ái Quốc tập hợp lại thành cuốn sách nổi tiếng Đường Kách Mệnh (Road to Revolution) xuất bản khoảng năm 1927.  Theo Ho Tai Hue Tam, trong cuốn sách này, Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết được vấn đề đoàn kết dân tộc mà Phan Bội Châu đã từng bó tay: phân loại giai cấp và đoàn kết giai cấp để chống Pháp. Các thuật ngữ quan trọng chủ nghĩa Marx-Lenin đều bị dịch qua chữ Hán và làm sai lệch nghĩa gốc. Ngay cả từ “cộng sản” cũng sai. Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo sử dụng Công-Nông (giới công nhân và giới nông dân) để thay cho từ vô sản (wu chan) vốn dịch không sát nghĩa từ chữ proletariat của tiếng Nga. Từ đây quốc tế cộng sản bắt đầu nhìn nhận chính thức tiềm năng cách mạng của giới nông dân ở các nước thuộc địa.
Xã hội và con người Việt Nam vốn rất dễ bị chia rẽ mất đoàn kết. Nguyên nhân gây chia rẽ rất đa dạng, từ nguyên nhân địa lý  vùng miền, đến nguyên nhân tín ngưỡng, và đặc biệt và các nguyên nhân nặng tính cá nhân như hiềm khích, đố kị, ghen tị lẫn nhau. Trớ trêu thay, chính lý luận và phương pháp đấu tranh giai cấp lại làm con người ta đoàn kết. Tầng lớp dân này đấu tranh với tầng lớp dân kia, giới nọ đấu tranh với giới kia. Đấu tranh giữa đảng và các nhóm ngoài đảng. Đấu tranh trong đảng giữa các nhóm khác thành phần xã hội với nhau. Đấu tranh bằng lý luận và cả bảo lực. Chừng nào còn đấu tranh thì còn sức mạnh nội tại của đảng. Đỉnh cao của lý luận và thực tiễn đấu tranh chính là đấu tranh ý thức hệ mà kết quả là chiến thắng năm 1975. Ngay cả kẻ thù của thể chế cộng sản, là chính quyền Diệm Nhu, cũng nhận thấy lợi ích vượt bậc của biện pháp tranh đấu này, và họ đã tiến hành các cuộc đấu tranh chống phong kiến, phản thực dân và tố cộng rất thành công ở Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng phía kia còn cao tay hơn, họ đã dính một cú hồi mã thương từ miền bắc: đấu tranh tôn giáo. Thua cuộc tranh đấu chính trị -tôn giáo này đã làm anh em họ Ngô mất tất, kể cả mạng sống của mình.
Từ những năm 1927 các hạt nhân của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội trở về trong nước gặp khó khăn trong khâu tuyển dụng do bị cạnh tranh khốc liệt giữa các hệ phái khác nhau, và Đảng cạnh tranh mạnh nhất với họ chính là Việt nam Quốc dân Đảng.
Bản thân các hệ phái của ĐCS cũng tranh đấu với nhau về ý thức hệ và đường lối xem ai đúng hơn ai, ai chính thống hơn ai, ai đạo đức hơn ai. Vụ án tình ái phố Barbier năm 1928 xuất phát từ việc các cán bộ đảng là nam giới chăm chỉ hoạt động mà quên tình cảm cá nhân bỗng một hôm tranh nhau nữ cảm tình viên quyến rũ mà dẫn đến đấu tố nội bộ dẫn đến phán quyết cuối cùng là một người sẽ phải chết. Cảnh sát Pháp khi điều tra đã phát hiện ra đây không chỉ là một vụ giết người vì tình mà còn là hoạt động thanh trừng của một nhánh cộng sản hoạt động ở Sài Gòn nên đã bắt nhốt hết cả đám vào tù. Một trong những người tham gia vụ án tình ái ấy là Tôn Đức Thắng, khoảng 40 tuổi và già hơn hẳn các đảng viên khác, bị kết án và đầy ra Côn Đảo. Sau đó một năm, Phạm Văn Đồng lúc này hơn 30 tuổi cũng bị kết án và đầy ra Côn Đảo. Hoạt động của Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Cochinchina tan nát hẳn.
Ở chỗ này lịch sử lại có chút nghịch ngợm. Vụ án phố Barbier năm 1928 làm suy yếu chi nhánh của Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Cochinchina, mở đường cho nhóm trí thức đi theo hướng “tả đối lập” như  họ tự gọi từ Pháp trở về năm 1931. Nhóm cộng sản đệ tứTroskist này đã thành công nhờ đấu tranh công khai và trở thành nhóm chính trị chủ đạo ở miền nam và trúng cử một loạt vào Hội đồng thuộc địa năm 1935. Cái giá phải trả của nhóm này là Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm đều bị Việt Minh làm thịt ngay sau Cách Mạng Tháng 8. Thế nhưng nguyên nhân tổ chức phải tan nát vì gái của vụ Barbier hằn sâu vào tiềm thức của những người hoạt động cách mạng. Đây có lẽ là nguyên nhân dẫn đến tội “hủ hóa” của cán bộ cộng sản là một tội được coi là nguy hiểm ngang với tội phản bội đảng. Các cán bộ nữ khô khan và kiên định tự nhiên được ưu ái hơn hẳn các cán bộ nữ ướt át chân dài.
Năm 1930.
Ở Cochinchina hoạt động của Thanh niên cách mạng đồng chí hội tan nát, nhưng ở Tonkin cũng không khá hơn mấy do sau vụ Nguyễn Thái Học, mật thám Pháp đàn áp dữ dội các đảng phái yêu nước ở phía bắc. Dẫn đến cho chi nhánh của cộng sản ở bắc Annam (bắc trung bộ) và hàng loạt đảng phái thân Nhật tự nhiên mạnh hẳn lên. Nhánh cộng sản ở Annam chính là Đông dương cộng sản liên đoàn, một trong ba nhóm tham gia sáng lập ĐCS Việt Nam. Bản thân Đông dương cộng sản liên đoàn là một hệ phái chịu ảnh hưởng của Đường Kách Mệnh và tách ra từ Tân Việt Cách Mạng Đảng (1929).
Việt Nam Cộng Sản Đảng chính thức ra đời ở phố Quan Công, Hồng Công. Một thời gian ngắn sau đảng đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Ở phía bắc, Hoàng Văn Thụ rất vất vả bảo vệ và tái dựng các cơ sở đảng bị Pháp phá vỡ. Năm 1940, Hoàng văn Thụ lúc này là ngôi sao sáng, cử Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng (ra khỏi tù Côn Đảo năm 1936) qua Trung Quốc. Ở đây hai người bạn học này gặp Nguyễn Ái Quốc, lúc này đã dùng tên Hồ Chí Minh, ở Côn Minh.
Thử thách lớn nhất với những người cộng sản thời gian 1930-1940 này chính là nhà tù của Pháp mà ngay cả ở trong đó họ vẫn phát triển tổ chức lớn mạnh và tiếp tục đương đầu với chính quyền thực dân. Sự kiên cường của các đảng viên cộng sản và sức mạnh đoàn kết của đảng này đã làm nhiều đảng viên cốt cán của đảng khác ngưỡng mộ và đào ngũ để ra nhập tổ chức cộng sản, trong đó có các đảng viên ưu tú nhất của Tân Việt Cách Mạng Đảng.
Trong những năm này Nhật lặng lẽ yểm trợ cả Cao Đài và Hòa Hảo. Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ phật giáo Hòa Hảo, sau chuyển mình thành tổ chức có vũ trang được hiến binh Nhật cứu khỏi tay mật thám Pháp nhưng sau này không thoát khỏi tay Việt Minh.  Cùng với thế chiến thứ hai và sức mạnh của đế quốc Nhật, chủ nghĩa quốc gia cánh hữu bắt đầu hình thành ở Indochina với các ý tưởng kết hợp cả duy vật biện chứng lẫn dân chủ nghị viện. Họ sử dụng các ý thức hệ khá mơ mồ nhưng hấp dẫn được trí thức đô thị. Các tư tưởng này hay có tên liên quan đến ý tưởng “hỗ tương” và “duy tâm trung vật”.
Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện với tên đầu thường có chữ Đại Việt. Đại Việt Quốc Xã Đảng ở Hải phòng, Hà Nội. Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh rất mạnh trong sinh viên của Đại học Hà Nội (Đông Dương Học Xá) và xây dựng được chiến khu ở Bắc Giang. Đại Việt Duy Dân Đảng của các thành viên xuất thân từ Tự Lực Văn Đoàn. Đại Việt Dân Chính của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Ngô Đình Diệm có Đại Việt Phục Hưng trong đó có Ngô Đình Khôi làm lãnh đạo ở Huế.
Các đảng này, sau có nhóm kết hợp với quốc dân đảng (nhóm của Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam), có các nhóm kết hợp với nhau thành Đại Việt Quốc Gia Liên Minh. Nhóm của Trương Tử Anh hỗ trợ rất đắc lực cho việc hình thành chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên sau khi họ đảo chính Pháp. Sau Cách mạng tháng 8, Trương Tử Anh và Ngô Đình Khôi đều bị Việt Minh tảo thanh. Đảng Đại Việt về sau rất nổi ở Việt Nam Cộng Hòa nhưng bị chính quyền Ngô Đình Diệm dùng quân đội đàn áp tan nát ở ngay chiến khu của họ (chiến khu Ba Lòng).
Năm 1939-1940 nhiều người thuộc phe Đại Việt ở miền trung đã theo Cường Để trốn qua Tàu tham gia Kiến Quốc Quân.
Năm 1940.
Kiến Quốc Quân theo Nhật đi qua ngả Đồng Đăng đánh thành Lạng Sơn và là phần bắt đầu của bài viết dài phát mệt này.
Bonus
Ngày 7.30.1787 Thomas Jefferson viết thư cho William Drayton:
“The dry rice of Cochin-China has the reputation of being whitest to the eye, best flavored to the taste, and most productive. It seems then to unite the good qualities of both the others [white S. Carolina rice & brown Piedmont/Lombardy rice] known to us. Could it supplant them, it would be a great happiness, as it would enable us to get rid of those ponds of stagnant water so fatal to human health and life.”
“I have considerable of receiving of some dry rice from Cochin-China, the young prince of that country, lately gone from hence, having undertaken that it shall come to me”.
http://jeffersonpapers.princeton.edu/


Trong vỏ hạt dẻ (tiếp và hết)

I. OSS Hoa Kỳ, quân Đồng Minh và múi giờ Hà Nội
Là con một gia đình dòng dõi ở Chicago, Albert Peter Dewey vào học đại học Yale, tốt nghiệp, đi làm phóng viên thường trú ở Paris cho Chicago Daily News và thực hiện các nhiệm vụ ngầm cho Rockefeller. Thế chiến 2 nổ ra, Dewey đăng lính và cuối cùng gia nhập OSS (cơ quan tiền thân của CIA). Đầu tháng 9 năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (15 tháng 8), Dewey được cử đến Sài Gòn, đứng đầu một toán OSS có 7 thành viên, để đại diện cho quyền lợi Hoa Kỳ. Ở thời điểm này Hoa Kỳ chưa có cơ quan ngoại giao trên đất Đông Dương thuộc Pháp.
Khoảng nửa năm trước khi nhóm OSS của Dewey đến Sài Gòn, quân Nhật bất ngờ đảo chính Pháp ở Đông Dương (tháng 3), bắt giữ tù binh (POW), trong đó hơn 200 người Mỹ. Khi Dewey tới Sài Gòn thì Thế chiến 2 đã kết thúc, Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, ở Hà Nội Việt Minh đã cướp được chính quyền, và đang được phe Đồng Minh (Mỹ, Trung hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch) yểm trợ vì có công chống Nhật.
Trước nhóm của Dewey, vào tháng 7 năm 1945, một nhóm OSS khác, toán Con Nai, đi vào vùng rừng núi phía bắc đã huấn luyện khỏang 200 người cho các nhóm vũ trang của Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp. Những người được tình báo Mỹ đào tạo này đã rất có ích cho Việt Minh khi họ cướp chính quyền từ tay Nhật. Toán OSS Con Nai cũng cứu Hồ Chí Minh khỏi cơn sốt rét ác tính. Toán Con Nai còn tham gia hội nghị Tân Trào tổ chức khoảng giữa tháng 8, và họ đã được Việt Minh sử dụng như “hàng trưng bày tủ kính” để tỏ ra có sự ủng hộ của Hoa Kỳ.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ngay trước khi quân đội Pháp tổ chức trận càn lớn để tiêu diệt triệt để nhóm phiến quân ở vùng rừng núi phía bắc. Vô tình người Nhật đã cứu được nhóm phiến quân này. Đó chính là lực lượng Việt Minh lúc này vẫn còn ngô nghê và bé nhỏ. Các nhân viên OSS Con Nai huấn luyện cho lực lượng bán vũ trang sơ khai của Việt Minh. Và nhóm tuyên truyền có vũ trang này ngay lần đầu ra tay, bằng tuyên truyền và súng để đe dọa, đã dập tắt cuộc mít-tinh ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật bảo hộ ở Hà Nội vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Hai ngày sau họ cướp chính quyền Hà Nội từ tay Nhật. Từ rừng núi đi về Hà Nội vào những ngày Cách Mạng Tháng 8 cùng với Việt Minh có cả toán Con Nai của tình báo Mỹ. Những người lãnh đạo Việt Minh ấy, sau này tiến hành một cuộc chiến tranh dai dẳng đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương.  Tất cả những sự tình cờ này, là do lịch sử nghịch ngợm mà cố tình sắp đặt. Thậm chí, nếu tin vào các hồi ký của sĩ quan OSS, thì thậm chí chính OSS can thiệp với chính quyền Tưởng Giới Thạch để thả Hồ Chí Minh bị Trương Phát Khuê cầm tù (1943). Nếu đúng vậy thì lịch sử nghịch đến tận cùng của vạn sự.
Chưa hết, nhóm OSS cao cấp nhất, do Archimedes Patti chỉ huy, sau 19/8 đã đi thẳng từ hành dinh OSS ở Côn Minh tới Hà Nội bằng máy bay, mang theo cả những người Pháp “kháng chiến” chống Nhật vốn chạy trốn qua biên giới Việt Hoa sau khi Nhật đảo chính. Trong những người Pháp ấy có đại diện Pháp Jean Sainteny. Còn sĩ quan OSS đi cùng Patti nhưng nhảy dù xuống trước để thám sát, chính là người Mỹ gốc Pháp tên là Lou Conein, một người sau này là thuộc cấp của Edward Lansdale và là bạn của Phạm Xuân Ẩn. Lou Conein là người đưa tiền cho tướng Trần Văn Đôn để giúp đỡ phe đảo chính Ngô Đình Diệm sau này. Còn Patti đã giúp đỡ cho việc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập cũng như “thay mặt” Hoa Kỳ tham dự lễ Độc lập đầu tiên. Patti cũng thăm dự các cuộc gặp gỡ của Lư Hán với Hồ Chí Minh.
 Ở Sài Gòn, nhóm của Dewey làm việc với Việt Minh để bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ, cụ thể là khoảng hơn 200 tù nhân POW bị Nhật giam giữ gần Sài Gòn. Chỉ mấy tuần sau sau tình hình thay đổi, quân đội Anh (20th Indian Division của Douglas David Gracey) vào giải giáp Nhật. Trước khi qua đời vào tháng 4 năm 1945, tổng thống Roosevelt của Mỹ cho rằng thuộc địa của Anh và Pháp đang bị Nhật chiếm đóng cần giữ nguyên hiện trạng và đặt dưới sự kiểm soát quốc tế. Anh và Pháp tất nhiên không nghĩ như vậy. Pháp ngoan cố tìm cách giữ lại Indochina thuộc Pháp còn người Anh khuyến khích việc này. Khi vào Nam Bộ giải giáp quân Nhật họ đã thả tù binh Pháp ra, tái vũ trang cho họ để chống lại người Việt nói chung và Việt Minh nói riêng lúc này đã hiện rõ là cộng sản. Tướng Gracey, theo sách của Stanley Karnow, còn cấm tụ tập, cấm báo chí của người Việt, nhưng cho phép báo chí và đài phát thanh của Pháp hoạt động.
Ở Hà Nội, quân đội của chính quyền Tưởng Giới Thạch do Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy tiến vào miền bắc giải giáp Nhật nhưng họ đã không động chạm đến Chính quyền lâm thời và các ủy ban  hành chính của Việt Minh. Tất cả những nỗ lực của Lư Hán và Tiêu Văn chỉ là  tranh thủ ăn tiền và cướp bóc, đồng thời dựng các băng nhóm thân Tưởng (Quốc Dân Đảng, Đại Việt) của Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam.  Đây là những nhân vật quen thuộc của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội do tướng của Trung hoa dân quốc là Trương Phát Khuê dựng lên ở Liễu Châu năm 1942. Một trong những hành động đầu tiên khi Lư Hán đến Hà Nội là bắt chính phủ Việt Minh đổi múi giờ, vốn chính thức đang phải theo múi giờ của đế quốc Nhật là GMT+9, về múi giờ GMT+7.
Ở Sài Gòn, quân đội Anh của tướng Gracey không chỉ thả người Pháp ra và tái vũ trang cho họ, mà còn tấn công trụ sở ủy ban chính quyền lâm thời của Trần Văn Giàu. Sài Gòn rơi vào tình trạng bạo lực khi người Pháp, bao gồm cả thường dân, đánh nhau với Việt Minh và Hòa Hả0. Dewey phản đối các quyết định của Gracey và quan hệ giữa họ xấu đi. Xe jeep của Dewey bị Gracey cấm treo cờ Mỹ.
Hơn mươi ngày sau khi đặt chân đến Sài Gòn, Dewey lại phải ra đi. Theo Archimedes Patti trong Why Vietnam, trước đó người sĩ quan trẻ này đã bí mật gặp Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai và Phạm Ngọc Thạch. Cũng theo Patti, báo cáo cuối cùng của Dewey gửi từ Sài Gòn nhận định “người Pháp sẽ cáo chung ở đây, còn người Mỹ chúng ta sẽ phải rút khỏi Đông Nam Á”.
Từ Continental, Dewey lái xe ra sân bay, đón hụt máy bay, lái xe trở về khách sạn. Trên đường về bị lực lượng Thanh Niên Tiền Phong  của Phạm Ngọc Thạch chặn, tưởng nhầm là người Pháp, bắn chết.  Dewey là lính Mỹ đầu tiên chết ở Đông Dương. Lúc đó là ngày 26 tháng 9 năm 1945, ba tuần sau khi chính phủ Việt Minh tuyên bố Độc Lập ở Hà Nội.

Ở thời điểm này không ai ngờ được rằng sẽ có hai cuộc chiến lớn sẽ xảy ra ở mảnh đất Đông Dương: chiến tranh Pháp- Việt và chiến tranh Mỹ – Việt. Hai cuộc chiến được gọi lần lượt là Chiến tranh Đông Dương lần 1, và Chiến tranh Đông Dương lần 2.
Năm 1950, gần 5 năm sau cái chết của Dewey, Hoa Kỳ mới mở cơ quan ngoại giao của mình ở Sài Gòn. Đó là lúc Anh và Mỹ công nhận Quốc Gia Việt Nam (State of Vietnam) của Quốc trưởng Bảo Đại, như một đối trọng với việc Liên Xô và Trung Quốc công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở vùng rừng núi phía bắc. Cùng một lúc, ở Đông Dương, tự nhiên có hai chính phủ cùng đòi hỏi sư hiện diện hợp pháp của mình trên toàn cõi Việt Nam. Một cõi mà phải đến tận năm 1975 mới liền một dải.
II. Năm 1945, bàn giao Bắc Bộ Phủ, ngày Độc Lập, và những chuyện kéo dài đến 1954.
Tính chính danh không phải là trò chơi quyền lực xa lạ gì với mảnh đất này. Tây Sơn khởi nghĩa lúc đầu chỉ là hùa theo tính chính danh của hoàng tôn nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương để chống lại bọn quan tham nhũng lộng hành bóc lột dân là Trương Phúc Loan. Rồi Tây Sơn đánh nhau thua quân Trịnh, đầu hàng, rồi hùa theo quân Trịnh để lấy chính danh nhà Lê để đánh nhà Nguyễn tan tác khỏi đất miền nam. Đánh nhà Nguyễn xong, để Nguyễn Nhạc lên làm vua miền trong để lấy chính danh, Nguyễn Huệ bị ép ra mảnh đất hẹp miền trung, một lần nữa phải dương tính chính danh phù Lê để ra bắc làm thịt nhà Trịnh. Nhà Trịnh lúc này tiếm quyền vua Lê đã quá lâu, mà bóc lột nhân dân cũng rất quá đà. Diệt xong nhà Trịnh, Nguyễn Huệ cướp bóc Bắc Hà, rút về miền trung để lại khoảng trống mênh mông quyền lực và xơ xác vật chất. Lê Chiêu Thống dại dột qua Tàu rước quân ngoại xâm về, để lại Thăng Long khoảng trống chính danh. Nguyễn Huệ nhanh chóng lấp mình vào chỗ chính danh ấy, lên ngôi Hoàng Đế, sử dụng địa phương quân đánh chặn quân Thanh từ biên giới về đến đất Kinh Kỳ. Theo Nguyễn Duy Chính,  từ miền trung Hoàng Đế Quang Trung (đã bí mât lên ngôi) cử một cánh quân đi vòng qua Ai Lao (quân bộ) và  một cánh quân đi đường biển đánh ra bắc. Hai con đường này, quân Chiêm Thành đã từng dùng để đánh Thăng Long. Nguyễn Huệ cầm một đạo quân đi nhanh ra Nghệ An, huy động quân đội và dân công tại chỗ, một bí quyết quân sự mà chỉ có Việt Minh đánh Điện Biên sau này mới làm nổi, rồi tiến phăng phăng ra bắc. Chiến thắng Kỷ Dậu đưa Quang Trung lên hàng siêu sao về quân sự, thống nhất Trung – Bắc, đồng thời để lại bài học cho quân đội Việt Nam sử dụng địa phương quân đánh 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình năm 1979. Chỉ có một điểm khác. Quân Quang Trung truy sát tàn nhẫn quân Thanh khi bọn này rút chạy, khiến cho nhiều năm sau chúng còn khiếp sợ không dám khiêu khích. Quân Việt Nam năm 1979 không truy kích mà tuyên bố “thiện chí hòa bình” cho Trung Quốc rút quân (từ 7 đến 18 tháng 3 năm 1979) khiến chúng khinh nhờn mà kéo dài xung đột biên giới đến 1988 và đánh Trường Sa 1988.
Thế nhưng mải mê chinh chiến trên đất bắc mà Quang Trung  lơ là để hổng phía nam khiến Nguyễn Ánh có cơ mà nổi lên như bão. Nguyễn Ánh khi trở lại, lại mượn tạm tính chính danh của nhà Lê để bày trò Phục Quốc, bằng cách sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng đồng thời sử dụng tâm lý chiến để thu phục lòng dân Bắc Hà (“lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”).
Tính chính danh của nhà Nguyễn Gia Long được triều đình nhà Thanh công nhận và Việt Nam trở thành chư hầu của Trung Hoa. Sau này quan hệ “chư hầu” (vương quốc vệ tinh chịu ảnh hưởng chính trị của nhà Trung hoa) chấm dứt và trở thành quan hệ “bảo hộ” của Pháp  nhờ ba sự kiện: quân Pháp đánh quân Thanh ra khỏi Lạng Sơn, hiệp ước Pháp-Thanh và hiệp ước Patrenote. Cũng nhờ hiệp ước Patrenote mà sau này ký được Hiệp ước sơ bộ mới đưa Tàu Tưởng ra khỏi phía bắc. Biên giới trên bộ Việt-Trung cũng dựa nhiều vào hiệp ước Pháp-Thanh
Việt Minh đã học bài học thứ nhất. Bài học nhảy vào chỗ trống quyền lực ở miền bắc xác xơ vì đói phá kho thóc Nhật và cướp chính quyền, họ đã làm hoàn hảo.
Theo Thomas Bass thì Cao Giao, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn, là người đã báo tin cho Mười Hương về việc Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) để họ chuẩn bị lực lượng. Chỉ 3 ngày sau, ngày 12, TW Đảng đã ra chỉ thị quan trọng “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”.
Ở Hà nội, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rất nhanh về mặt thời cơ, Trương Tử Anh của đảng Đại Việt, vốn rất mạnh trong giới đại học và trí thức hồi đó, lại có thành tích yểm trợ Trần Trọng Kim, đã toan cướp chính quyền ở Tonkin (lúc này Đông Dương vẫn chia làm ba vùng tách biệt) nhân cuộc mít tinh ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim ngày 17 tháng 8 ở Hà Nội. Ở thời điểm bước ngoặt, Nhật thua trận, chính phủ Trần Trọng Kim bất ngờ bơ vơ, Bảo Đại chỉ đạo cho Trần Trọng Kim tổ chức chính phủ lâm thời, đồng ý cho Trần Văn Lai tổ chức Ủy ban cứu quốc, ra mắt Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc ngày 16 tháng 8 rồi  tổ chức cuộc  mit tinh 17 tháng 8 nói trên ở Hà Nội. Sự kiện lơ ngơ này của chính phủ Trần Trọng Kim vô tình đưa chìa khóa chính quyền của Việt Minh đang nằm chờ ở Việt Bắc.
Do chuẩn bị tốt hơn, đội tuyên truyền có vũ trang của Võ Nguyên Giáp từ Tân Trào về, phối hợp với người của Trường Chinh đã có mặt sẵn ở Hà Nội, nhanh chóng biến vụ cướp chính quyền của Trương Tử Anh thành của mình, để hai ngày sau họ có cuộc cướp chính quyền khác hiệu quả hơn, nay được biết với tên gọi Cách Mạng Tháng Tám (ngày 19 tháng 8). Ngày 19 tháng 8, Ủy ban giám đốc chính trị (Nguyễn Xuân Chữ) bản giao Bắc Bộ Phủ cho Việt Minh.
Sau khi cướp chính quyền, chỉ trong vài ngày, Việt Minh dẹp sạch các phần tử có tiềm năng cạnh tranh ở khu vực Hà Nội, rồi Võ Nguyên Giáp cho người lên chiến khu rước Hồ Chí Minh về làm lễ mùng 2-9 trong thanh bình. Trước khi vào nội thành, Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh ở Phú Thượng và hỏi: Mình làm chủ tịch à? Đây là lần đầu tiên trong đời Hồ Chí Minh, lúc này khoảng 56 tuổi, đặt chân đến Hà Nội. Đây cũng là lần thứ 4 Võ Nguyên Giáp đi đón Hồ Chí Minh. Ở thời điểm bước ngoặt này, Hồ Chí Minh nổi danh nhiều hơn với tên gọi ông già Tân Trào, sau được biết chính là Nguyễn Ái Quốc.
Theo hồi ký Bùi Diễm (đảng viên Đại Việt, hoạt động dưới quyền Trương Tử Anh, sau là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoa Kỳ) và hồi ký Lê Giản (Giám đốc nha công an Việt Minh, nằm trong bộ nội vụ của bộ trưởng nội vụ Võ Nguyên Giáp) cho biết Trương Tử Anh bị bắt và xử chết sau đó nhiều tháng. Theo sách của Hoàng Văn Đào, có một nhân vật cộm cán của VNQDĐ qua làm cho công an Việt Minh nên bắt đảng viên nào của Quốc Dân Đảng là dính bóc đảng viên ấy. Cũng theo hồi ký Bùi Diễm, các cơ sở chính quyền Việt Minh được tổ chức đồng loạt khắp các vùng thôn quê vùng sâu vùng xa, và được tổ chức rất tốt và đặc biệt là rất tàn nhẫn. Theo hồi ký của Thụy Nga (người vợ miền nam của Lê Duẩn), đội Thanh Niên Tiền Phong do bác sỹ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh đã tổ chức các hoạt động tảo thanh (tiễu trừ các đối lập chính trị) rất mạnh, dư âm còn lại rất lâu sau này trong tâm lý người dân. Bản thân Thụy Nga bị đội này bắt nhầm và suýt giết, may mà chỉ huy lúc đó là Phạm Hùng biết tin nên tha chết (Phạm Hùng kể lại với Thụy Nga: không thì chị đi mò tôm rồi).
Nhưng Việt Minh không thực hiện được bài học thứ hai, dù đã nỗ lực hết mình. Sau cách mạng tháng tám chỉ hai năm, người Pháp đã dựng được Nam Kỳ Quốc (Quốc gia Đàng Trong/ State of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng). Và ngay cả khi đã thắng trận Điện Biên Phủ rồi ký hiệp định Geneva, thì họ đã để cho gần như một tay Edward Lansdale tổ chức cả chiến tranh tâm lý lẫn logistic cho cuộc Exodus vĩ đại đưa gần một triệu người “đi ngược gió nồm vào Nam”. Số dân bắc di cư vào nam trong đợt này tương đương 5% dân số miền bắc. Trong đó khoảng hơn 300 ngàn người đi bằng tàu của Hải Quân Hoa Kỳ (chiến dịch Operation Passage to Freedom – Sang Phía Tự do) và khoảng 200 trăm ngàn người đi bằng cầu hàng không được coi khổng lồ nhất thế giới lúc bấy giờ với 1200 km chiều dài, cứ 6 phút có một máy bay hạ cánh ở đầu Sài Gòn. Một hàng hàng không dân dụng tham gia cầu hàng không này lại là một hãng hàng không bí mật của tình báo Mỹ. Tên hãng lúc đầu là Civil Air Transport, sau đổi thành Air America. Lúc Điện Biên Phủ khó khăn, CIA thuê phi công dân sự lái cho hãng này để không vận cho cứ điểm. Sau Geneva 1954, theo sách về CIA của Zalin Grant, nhóm của Lou Conein được Lansdale gửi ra Hà Nội thực hiện các hoạt động phá hoại cũng như giấu vũ khí và thuốc nổ dọc theo sông Hồng cho các hoạt động kháng chiến chống cộng những năm sau 1954.
Ở phía Nam, theo sách của Thomas Bass, sau hiệp định Geneva, Landsdale tổ chức huấn luyện biệt kích và thả từ biển (người nhái) đột nhập vào duyên hải Bắc Bộ, mang theo vũ khí và rất nhiều vàng. Người nhái vào đều bị phản gián Bắc Việt bắt sạch, nhưng Landsdale không biết mà vẫn tiếp tục gửi thêm các nhóm khác. Số phận các người nhái này vẫn là bí ẩn, chỉ biết họ còn sống đến sau 1975. Sau này người ta cho rằng Phạm Xuân Ẩn là người làm kế hoạch của Lansdale thất bại.
Việc tuyển dụng biệt kích mang qua Philippines huấn luyện, theo Zalin Grant, có sự tham gia của Conein. Cũng lúc này Landsdale ráo riết hoạt động ủng hộ Ngô Đình Diệm và nội các non nớt của ông này. Việc kéo các sĩ quan Hòa Hảo, Cao Đài, trong đó có Trình Minh Thế về phe Ngô Đình Diệm là có công sức vận động của Landsdale, một người không biết một ngôn ngữ nào ngoài tiếng Mỹ. Sau khi Lansdale rời Sài Gòn, ở Trường Võ bị Đà Lạt phái bộ quân sự Hoa Kỳ bắt tay vào huấn luyện quân đội quốc gia Việt Nam bắt đầu manh nha hình thành.
III. Năm 1946
Rất nhanh sau ngày Độc Lập (mùng 2 tháng 9), sắc lệnh số 8 do Võ Nguyên Giáp ký ngày 5 tháng 9 năm 1945 đã đặt các đảng phái chống Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật (Khoản thứ nhất : Nay giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng”. Khoản thứ hai : Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị).
Trong lúc mải mê săn đuổi và triệt hạ các đảng phái này, Việt Minh quên béng Bảo Đại, lúc này đang làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh với cái tên Vĩnh Thụy, lại cố ý cho ông này đi thoát qua Trung Quốc rồi bỏ rơi cựu hoàng này ở Côn Minh (16 tháng 3 năm 1946), bắt hụt Ngô Đình Nhu và thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà ngục.
Bảo Đại, đi Trung Quốc vừa tự nguyện vừa bắt buộc. Chỉ 10 ngày trước khi đi, Việt Minh ký hiệp ước để “quay lại” với Pháp, một điều trái với ý quốc dân và tự mâu thuẫn với việc họ phế chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim. Bị bỏ rơi lại Côn Minh, Bảo Đại loay hoay vài tháng với Quốc dân đảng Trung Hoa rồi bỏ đi Hong Kong vào Tháng 9. Trong thời gian ở Trung Quốc, dù rất nghèo Bảo Đại vẫn tìm cách bảo trợ cho triển lãm tranh của Nguyễn Tường Lân. Họa sỹ tài năng này chỉ một thời gian ngắn sau đó bị Việt Minh bắt và chết trong tù. Khi Bảo Đại đi ra khỏi Việt Nam sau khi ký hiệp ước sơ bộ mùng 6 tháng 3, không ai ngờ được rằng sẽ có chiến tranh Pháp Việt và sau đó là việc Pháp ký Hiệp ước Élyseé với Bảo Đại, tạo tiền đề cho nhà nước Việt Nam Cộng Hòa sau này. Có một chi tiết nhỏ, lúc Bảo Đại ở Trung Quốc, chính phủ Nhật đang ở đáy của thất bại, vẫn gửi hiến binh giả làm người Việt qua tìm Bảo Đại và bảo vệ vị cựu hoàng này. Người Nhật có cái gì đó rất kì quặc, nhưng là sự kì quặc của chung thủy, tận tụy và phi thời gian.
Ngô Đình Diệm, lúc đó bị Việt Minh bắt giam trên rừng, được đưa về Hà Nội giam chỗ bây giờ là công an Hoàn Kiếm. Theo hồi ký Lê Giản, chính Lê Giản đưa Hồ Chí Minh vào nhà lao để gặp Ngô Đình Diệm, Lê Giản đứng gác ở ngoài, sau đó Ngô Đình Diệm được thả. Gần 5 năm sau khi được thả, Ngô Đình Diệm qua Nhật gặp Cường Để và tìm kiếm hỗ trợ từ nước Nhật nhưng thất bại. Rồi qua Bỉ, qua Pháp, cũng thất bại. Rồi qua Mỹ, cũng chưa ăn thua. Cho đến lúc Ngô Đình Nhu tìm cách để Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng (thực chất là đứng đầu chính quyền miền nam) và Diệm về Sài Gòn nhận chức chỉ hai tuần trước khi Geneva được ký, và đất nước bị chia làm hai nửa không bằng nhau. Chuyện này cuối bài kể tiếp. Còn bây giờ lần một chút về nắm bối cảnh quá khứ.
IV. Những chớp ảnh về quá khứ: từ 1920 rồi lại đến 1945.
Các thế hệ thanh niên tân học, sinh ra và lớn lên ở một nước Pháp viễn đông (Cochinchina) hay một vùng được nước mẹ Đại Pháp bảo hộ (Annam, Tonkin) đã học được từ phương tây tinh thần tự do và mong ước dân tộc độc lập. Tinh thần ấy đi sâu vào các hoạt động xã hội, chính trị, vào báo chí, văn nghệ, vào các chính trị gia, các đảng phái. Độc lập với họ không cần là self-government hay autonomy về mặt hình thức, mà phải ở nội dung: thống nhất Trung Nam Bắc, tự chủ về kinh tế, tiền tệ, ngoại giao và quân sự. Khởi nghĩa Yên Bái và hoạt động của Nguyễn An Ninh là tiêu biểu của thanh niên thời kỳ này.
Chính quyền thuộc địa của Pasquier nhanh chóng phản ứng với xu thế này. Họ lập tức cổ võ truyền thống dân tộc, giá trị cổ điển của nước Annam, và tái lập hình ảnh và vị thế của triều đình Huế. Nhưng ngai vàng lại bất ngờ trống vắng khi vị vua thân Pháp là Khải Định lăn ra chết. Chính quyền thực của Huế, không nằm trong tay vua, mà nằm trong tay các quan lại. Họ bắt đầu chống Pháp theo kiểu của họ, bằng cách đòi hỏi sử dụng hiệp ước 1884. Để làm điều này, quan đại thần Nguyễn Hữu Bài yêu cầu Pháp mang hoàng tử trẻ lúc này đang học ở Pháp, là Bảo Đại, trở về. Một vị quan – trí thức khác là Phạm Quỳnh lại đòi xây dựng quân chủ lập hiến. Trí thức tây học thậm chí còn cực đoan hơn, đòi dẹp luôn triều đình mà lập ra cái gì đó mới mẻ hơn hẳn. Kết quả là Bảo Đại quay về Huế năm 1932 khi 20 tuổi. Một năm sau, năm 1933, Nguyễn Hữu Bài, 70 tuổi, bị Pháp lật đổ và thay người thân Pháp là Phạm Quỳnh vào. Cũng trong năm này, Phạm Quỳnh cạnh tranh quan điểm khá mạnh với một quan khác và khiến viên quan này phải từ chức, rồi từ đó mang tư tưởng chống Pháp và có hào quang của một vị quan treo ấn từ quan. Đó là Ngô Đình Diệm.  Năm này Ngô Đình Diệm 32 tuổi và là thượng thư trẻ nhất của triều đình. Sau khi từ quan, Ngô Đình Diệm tham gia các hoạt động ngầm chống Pháp của hoàng thân Cường Để, do đó bị mật thám Pháp theo dõi rất chặt chẽ .
Đầu những năm 1940, Nhật tiến vào Indochina với thỏa thuận ngoại giao mềm mại với chính quyền Vichy. Kiểm soát của chính quyền Pháp trở nên lỏng lẻo, mật thám Pháp sao nhãng việc giám sát. Hiến binh Nhật bắt đầu các hoạt động ngầm ủng hộ các tổ chức kháng Pháp.
Ở phía nam họ hỗ trợ Cao Đài, Hòa Hảo. Năm 1942, lãnh đạo Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị mật thám Pháp vây bắt.  Hiến binh Nhật đã giải thoát rất ngoạn mục vị lãnh đạo tôn giáo 22 tuổi khỏi tay mật thám Pháp. Nhưng đến năm 1947, ở tuổi 27, Huỳnh Phú Sổ không thoát nổi tay Việt Minh. Cũng năm 1942, giáo chủ Phạm Công Tắc, lúc này 52 tuổi, bị Pháp bắt và đày qua Madagascar. Ở đó Phạm Công Tắc bị giam chung với tù cộng sản, trong đó có Lê Giản. Hồi ký Lê Giản có kể lại chuyện này.
Ở miền trung người Nhật ủng hộ các nhóm Đại Việt thân Nhật và chịu ảnh hưởng của Cường Để, trong đó có nhóm Ngô Đình Diệm. Năm 1944 khi mật thám Pháp vây bắt Ngô Đình Diệm, hiến binh Nhật đã giải cứu rồi mang Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn để bảo vệ.
Ở miền bắc họ tuyên truyền và lấy tình cảm của trí thức trẻ và học sinh sinh viên trong Đông Dương Học Xá, đặc biệt là với nhóm Đại Việt của Trương Tử Anh và học giả Trần Trọng Kim. Tháng 7 năm 1944 thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh bắt Trương Tử Anh, hiến binh Nhật can thiệp không cho bắt. Hồi ký của Bùi Diễm mô tả khá sống động hoạt động ngầm và nổi của người Nhật ở Hà Nội quãng thời gian này: rất tinh tế, tinh xảo và hiệu quả.
Cùng lúc này ở bên kia biên giới, các hội kháng Pháp  dưới sự bảo kê của cả quân đội Trung Hoa (quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch) và quân đội Trung Quốc (đảng cộng sản của Chu Ân Lai), xuất hiện chi chít: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội  xuất hiện sớm nhất, năm 1936, ở Nam Kinh (của Hồ Học Lãm, du học sinh Đông Du và sau này tham gia hội của Phan Bội Châu, và là sĩ quan cao cấp của quốc dân đảng), Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội (thỏa hiệp hợp tác giữa VNQDĐ và ĐCS Đông Dương), và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội do chính tướng của Quốc dân đảng là Trương Phát Khuê tổ chức cho người Việt hải ngoại. Trong nhóm của Trương Phát Khuê có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội sau được dựng lại thànhViệt Minh.
Có một chi tiết mà lịch sử lại rất nghịch ngợm ở đây, đó là Trương Phát Khuê chính là người đã bắt bỏ tù Hồ Chí Minh ở Trung Quốc rồi lại thả ra (8/1942 đến 9/1943) để tận dụng nhân vật tài năng này xây dựng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội  sau khi Hồ Chí Minh bỏ đi để về với Việt Minh, ngay lập tức chia rẽ nội bộ và suy yếu. Ngay cả tên Hồ Chí Minh, cũng được cho là do Nguyễn Ái Quốc sử dụng từ năm 1939 dưới vỏ bọc một sĩ quan Bát Lộ Quân của Diệp Kiếm Anh ở Quế Lâm để lẩn trốn sự truy tìm của trùm mật vụ quốc dân đảng là Tai Li (Dai Li, Taili, Đới Lạp, 戴笠)  vốn có mạng lưới chân tay trên khắp đất Trung Hoa và cả ở các khu nhượng địa, đặc biệt là các nhóm  xã hội đen hoạt động ngầm.
Cũng trong thời gian 1939-1940, dưới tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ Chu Ân Lai (người quen cũ từ hồi ở Pháp 1921),  liên hệ với nhóm VNĐLĐMH (Việt Minh) và ủy ban hải ngoại của ĐCS Đông Dương của Hồ Học Lãm , Hoàng Văn Hoan và Phùng Chí Kiên; đồng thời tìm cách liên lạc với Đảng cộng sản Đông dương ở trong nước nhưng bất thành. Cùng lúc này ở trong nước, Chu Văn Tấn và Hoàng Văn Thụ tổ chức khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 5 năm 1940, lúc Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Hoàng Văn Thụ gửi sang Trung Quốc, họ đã gặp Nguyễn Ái Quốc vào tháng 6 ở Côn Minh nhưng sử dụng tên cũ hồi ở Hồng Công là Vương. Đây là lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp gặp Hồ Chí Minh, và là lần đầu tiên Hồ Chí Minh trở về đất mẹ. Họ đi vào Pắc Bó. Năm 1943, khi Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê thả ra khỏi tù, quản thúc rồi đồng ý cho về Việt Nam, Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đi đón lần thứ hai. Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh đi Trung Quốc để trả cho quân Đồng Minh (thực tế là không lực Hoa Kỳ) trung úy Shaw (được Việt Minh cứu) cốt để kết nối với các cơ quan tình báo Mỹ OWI, OSS và tướng Chennault (tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ) ở Côn Minh. Khi trở về Việt Nam vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1945, thì Hoàng Quốc Việt và Chu Văn Tấn đã xây dựng xong chiến khu Cao Bằng, Bắc Cạn nên từ Pắc Bó Hồ Chí Minh đi xuống Kim Lung. Chính ở Kim Lung, toán Con Nai đã gặp Hồ Chí Minh. Từ Kim Lung họ cùng nhau đi tiếp đến Na Lừa, Kim Long và gặp Võ Nguyên Giáp lên đón. Đây là lần thứ ba Võ Nguyên Giáp đón Hồ Chí Minh. Tại đây Hồ Chí Minh đổi tên địa danh thành làng Tân Trào (New Tide).
Khi rời quê hương, Nguyễn Tất Thành có một danh và một phận. Khi rời Pháp qua Nga, Nguyễn Ái Quốc có danh và phận khác. Khi rời Trung Quốc trở lại quê hương sau nhiều năm lưu lạc, Hồ Chí Minh có danh và phận thứ ba. Khi rời Tân Trào về Hà Nội, tất cả các danh và phận chập lại thành một để trở thành sứ mệnh. Quãng đường đấy dài 35 năm, trong đó 5 năm cuối chủ yếu là đi bộ.
Còn ở ngay Hà Nội, Trường Chinh tổ chức Hội Văn Hóa Cứu Quốc và thành lập hai đảng Việt Nam Xã Hội Đảng và Việt Nam Dân Chủ Đảng. Đảng Dân chủ chỉ vài năm sau được Việt Minh sử dụng làm công cụ chính danh khi cướp chính quyền ở Hà Nội và thành lập chính phủ. Với sáng kiến này, Trường Chinh đã tỏa sáng rất rực rỡ trong hàng ngũ lý luận của Việt Minh với tầm nhìn xa trông rộng của mình. Và phải rất lâu sau mới tỏa sáng thêm lần nữa, cũng ở vai trò Tổng Bí Thư, ở đêm trước Đổi Mới.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, rất bất ngờ và gọn ghẽ. Nhưng họ đã không chọn Cường Để, một nhân vật thân Nhật mà vẫn sử dụng Bảo Đại. Người ký tuyên ngôn độc lập cho nước Việt, dưới sự che chở của Nhật, là Vua Bảo Đại cùng sáu vị thượng thư, trong đó có Phạm Quỳnh, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập này có đoạn: “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi  Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.”
Bất ngờ hơn nữa, người Nhật không chọn Ngô Đình Diệm, vốn đang được quân đội Nhật che chở ở Sài Gòn làm thủ tướng. Thay vào đó họ chọn Trần Trọng Kim là một học giả nổi danh. Trước đó Trần Trọng Kim được người Nhật đưa đi trốn ở Singapore . Chính phủ Trần Trọng Kim với nội các toàn dân trí thức thượng lưu đã ra mắt quốc dân với tên gọi Đế Quốc Việt Nam (Vua Bảo Đại ký chấp thuận nội các này ngày 7 tháng 4 năm 1945). Thị trưởng Hà Nội đầu tiên, Đốc lý Trần Văn Lai, chính là thị trưởng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong thời gian ngắn ngủi làm thị trưởng, Trần Văn Lai đã thay đổi ngôn ngữ hành chính từ Pháp qua Việt, thay các tên phố Hà Nội từ tên Pháp qua tên danh nhân Việt, phá tượng Pháp dựng ở Hà Nội.
Chỉ vài tháng sau,ngày 23 tháng 8, tức 4  ngày sau Cách Mạng Tháng 8, Bảo Đại nhận được yêu cầu thoái vị từ  Chính phủ nhân dân cách mạng của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu một hồi, Bảo Đại biết Hồ Chí Minh là ai, bèn thoái vị và trở thành công dân nước độc lập, ra Hà Nội làm cố vấn Vĩnh Thụy. Trong hồi ký “Một cơn gió bụi” của Trần Trọng Kim đăng trên báo năm 1949 có nhắc lại câu nói lừng danh của Bảo Đại về việc này.
Ở Bắc Bộ, Việt Minh làm chủ tình hình nhờ tảo thanh triệt để các phe đối lập. Quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch, lúc này Hồng Quân của Mao chưa thắng thế, và cũng không phải ở phe Đồng Minh), yểm trợ cho Quốc Dân Đảng và nhùng nhằng với cả Việt Minh lẫn Pháp. Việt Minh ký Hiệp ước sơ bộ Pháp Việt (ngày 6 tháng 3 năm 1946) để lấy tính chính danh cho chính phủ Việt Minh nằm trong Liên hiệp Pháp đồng thời đồng ý cho quân đội Pháp (tướng Leclerc) quay lại miền bắc để đẩy quân Tưởng, kẻ thù của Việt Minh ra khỏi lãnh thổ. Quốc Dân Đảng và Đại Việt gặp tai nạn nặng khi khi mất hậu thuẫn Trung Hoa, nên bị quân đội Pháp và Việt Minh, lúc này chưa chiến tranh, phối hợp tiễu trừ. Các chiến khu của Đại Việt và Quốc Dân Đảng, hai lực lượng chống Pháp quyết liệt, ở dọc sông Hồng bị lực lượng vũ trang Việt Minh của Võ Nguyên Giáp tấn công và xóa sổ. Trương Tử Anh bị bắt. Các lãnh đạo Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh nhanh chân đi thoát qua biên giới. Thế nhưng Hiệp ước sơ bộ có nội dung thỏa hiệp với Pháp (chấp nhận cho Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp) và rước quân đội Pháp trở lại Việt Nam, về pháp lý đã  tạo ra một nước Việt Nam chỉ có Bắc bộ và Trung bộ, và do đó lại đặt Việt Minh vào thế đối lập với các đảng phái và các tổ chức có vũ trang có tinh thần chống Pháp ở Nam bộ. Nam bộ chỉ sáp nhập trở lại với Việt Nam được sau đó mấy năm nhờ công đàm phán của Bảo Đại (Hiệp ước Élysée năm 1949).
Ở Nam Bộ tình hình rắc rối hơn nhiều. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất bao gồm tất cả các lực lượng khác nhau, bao gồm cả Việt Minh vẫn Cao Đài, Hòa Hảo …nổi lên. Một trong các lãnh đạo của mặt trận này là Ngô Đình Diệm. Lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn lúc đó là Trần Văn Giàu (Bí thư xứ ủy, sau khởi nghĩa đứng đầu Lâm ủy hành chính), Dương Bạch Mai (là ủy viên trưởng của quốc gia tự vệ cuộc nằm trong Lâm ủy hành chính). Chính quyền Việt Minh ở Sài Gòn chỉ tảo thanh được các nhóm đối lập giàu trí thức mà kém vũ trang là nhóm Lập Hiến (Bùi Quang Chiêu) và nhóm Troskist (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) . Cả Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai đều có quan hệ cá nhân với nhóm Trotkist do cùng hoạt động chính trị hồi ở Paris hoặc quen nhau trong tù thực dân. Đường hướng vô sản của Troskist (Đệ tứ quốc tế, tả đối lập với Đệ tam quốc tế Stalinist của Việt Minh) khiến cho nhóm Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu rất nổi trong quần chúng lao động khi nhóm này rời Pháp quay về Sài Gòn để hoạt động chính trị. Đặc biệt là nhà cách mạng Tạ Thu Thâu rất được ngưỡng mộ. Phan Văn Hùm bị ám sát ở Thủ Đức không gây ồn ào, nhưng Tạ Thu Thâu bị xử chém công khai ở Quảng Ngãi, Việt Minh phải thay mấy nhóm hành quyết mới giết nổi ông này vì uy danh lớn quá, không ai dám ra tay. Ngô Đình Diệm bị công an Việt Minh bắt và chuyển ra Hà Nội. Các nhóm như Hòa Hảo, Cao Đài súng ống đầy mình do Nhật yểm trợ nên Việt Minh không thể cưỡng được, đành thôi. Tuy nhiên lãnh tụ Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị phục kích chết sau đó hơn một năm, khi chiến tranh Pháp Việt đã nổ ra (1947). Lực lượng Thanh Niên Tiền Phong rời Sài Gòn đi về nông thôn. Trần Văn Giàu coi như mất giá, phải ra Hà Nội làm nhà nghiên cứu cạo giấy, mở đường cho hai siêu sao là Nguyễn Bình (vốn là đảng viên quốc dân đảng, sau khi đi tù Côn Đảo đã chuyển qua hàng ngũ cộng sản lãnh đạo các hoạt động quân sự) và Lê Duẩn (lãnh đạo chính trị). Hồi ký Trần Văn Giàu, xuất bản không chính thức từ bản thảo ở Long An, hé lộ một nửa chuyện này. Sách về Cách Mạng Tháng 8 và sử đảng xuất bản ở HN những năm 1960 không nhắc gì đến Nguyễn Bình và Trần Văn Giàu. Ở giai đoạn này Dương Bạch Mai và Nguyễn Bình ở tuổi trên 40 và nắm Công An, Quân đội. Lê Duẩn và  Trần Văn Giàu trẻ hơn, đều dưới 40 và nắm xứ ủy.
Ở Nam Bộ, quân Đồng Minh Anh rút đi, để lại Đông Dương cho Pháp. Ở đây có những phép đảo nghịch khá thú vị. Khi Nhật đảo chính Pháp, quân đội Pháp đóng ở Bắc Bộ, bao gồm cả sĩ quan Pháp gốc Việt, chạy qua biên giới Việt Trung, sau họ quay lại, gây sức ép lên Việt Minh. Ở Nam Bộ, sau khi Nhật đầu hàng, các sĩ quan Nhật không muốn rơi vào tay đồng minh kẻ thì tự tử, kẻ chạy qua Liên Việt (do Việt Minh lập ra). Trung úy Yushida chạy qua làm cố vấn cho quân đội Cao Đài, đại úy Kani Bushi làm cho Hòa Hảo. Hai sĩ quan Nhật đi làm như vậy là do một sĩ quan cao cấp hơn tên là Ishitako giao nhiệm vụ. Ishitako làm cho Việt Minh ở Liên Khu 5 với tên Việt là Nguyễn Thống. Việt Minh kiểm soát Liên khu 5 rất lâu (cho đến chiến dịch Atlante năm 1953 Pháp mới chiếm được). Trong thời gian này, Nguyễn Thống tiếp tục giao cho Shiato là cựu tư lệnh Hiến binh Nhật mở trường đào tạo tình báo cho Việt Minh ở Quảng Ngãi. Nguyễn Thống cũng chỉ huy mở đường mòn nối Liên Khu 5 (Nam Trung Bộ) và Liên Khu 7 (Nam Bộ). Đường này có tên đường Liên Việt Liên Khu 5. Đây chính là đường mòn Hồ Chí Minh sau này. Bản thân Nguyễn Thống mở các lớp đào tạo sĩ quan ở miền tây.  Năm 1950 Nguyễn Thống, Shiato, các sĩ quan Nhật, sĩ quan của Nguyễn Bình … đều bị Việt Minh cô lập hoặc tảo thanh để giữ cho hàng ngũ cao cấp của họ được “kinship” đồng chất đồng màu.
Ở Bắc Bộ, quân Đồng Minh Tàu Tưởng rút đi khỏi đất liền miền bắc nhưng vẫn chiếm các hải đảo (giải giáp từ quân Nhật) vốn trước do Pháp công nhận thuộc Annam do Pháp bảo hộ (1932), sau Pháp sáp nhập vào  Đông Dương Thuộc Pháp (cũng trong năm 1932). Hải quân Pháp không chịu mất chủ quyền của quốc gia, đánh nhau với quân Tàu Tưởng, đến năm 1950 mới xong.
V. Những gì xảy ra trong 1949-1950, chuyện Hoàng Sa, Trường Sa, Cochinchina và di sản của thời kỳ này.
Năm 1950, theo hiệp ước Élysée mà chính phủ Pháp ký với Bảo Đại, Nam Bộ (Cochinchina) quay trở về với đất mẹ Việt Nam. Lần đầu tiên ba miền thống nhất. Cochinchina, bao gồm cả Khmer Prom và đảo Phú Quốc cũng  thoát được nỗ lực xâu xé của hoàng thân Sihanouk. Pháp cũng bàn giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) của Bảo Đại. Ngày 7 tháng 9 năm 1951 thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao của Bảo Đại là Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam ở hội nghị San Francisco là hội nghị giải quyết tài sản của Nhật.  Trước đó Liên Xô to mồm ủng hộ tuyên bố của Trung Quốc (Mao) về chủ quyền của hai quần đảo này.  Việt Minh trong lúc này vẫn cặm cụi ở trên rừng làm việc của mình chả biết gì về chủ quyền biển đảo. Thế là hội nghị San Francisco phải bỏ phiếu. 46/51 nước  bỏ phiếu cho Việt Nam. Điều này một lần nữa được hiệp ước Geneva (sau Điện Biên Phủ 1954) công nhận cho chính phủ Bảo Đại ở phía nam vĩ tuyến 17.
Công lao của Bảo Đại với Nam Bộ, sau là cả Việt Nam, ở chỗ này không thể không công nhận. Hai ông hoàng Bảo Đại và Cường Để đã làm được những việc xứng đáng với dòng dõi vua chúa lập quốc của mình.
Tháng 5 năm 1956 lợi dụng Quốc gia Việt Nam lúc này mới chuyển thành Việt Nam Cộng Hòa (1955 với Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên), Tàu Tưởng Đài Loan chiếm Ba Bình Trường Sa. Ngay lập tức Ngô Đình Diệm cho hải quân ra đánh chiếm lại (tháng 8 năm 1956).
Đến năm 1974, thay vì quân Tưởng ở Đảo, lần này quân Mao ở Lục Địa, đánh Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 (sau hiệp định Paris) đã suy yếu lắm rồi. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, dù biết hải quân mình yếu và kém cỏi hơn hẳn, vẫn ra lệnh đánh trả. Đây là quyết định sáng suốt nhất và có tính chiến lược nhất của Nguyễn Văn Thiệu. Đánh trả chính là tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ nhất. Nó cũng chuyển tải thông điệp cho đời sau: để lấy lại Hoàng Sa, không cách nào khác là phải dùng biện pháp quân sự.
Trong các sách của người Châu Âu viết về đất nước, con người và lịch sử của chúng ta từ những năm cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, có nhiều cách họ nhìn nhận chúng ta vừa thú vị vừa tạo thành di sản lịch sử.
Một trong những điểm họ đánh giá về đất nước chúng ta, ở cái thời kỳ mông muội ấy, là chẳng có gì ngoài lợi thế địa lý. Họ ở đây là các hải đội của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và sau này là Pháp. Trên các con tàu ấy là hải quân, là các tu sỹ dòng Tên, dòng Đa Minh, dòng Phan Xi Cô, là các nhà buôn Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh. Ở giữa những người Châu Âu văn minh, người Việt mông muội, là các thương gia Hoa, thương gia Nhật và cả giáo dân Nhật, các linh mục lai giữa người Bồ và người Đông Nam Á.
Người Châu Âu là người vẽ bản đồ thế giới. Họ biết cái gì thì vẽ cái đấy. Biết tên gì thì đặt tên đấy. Thực tế trước khi người Bồ vẽ lại bản đồ thế giới, chỉ có biển của người Chàm (Sea of Champa, Champa Sea).  Người Châu Âu biết đến Trung Hoa, Nhật Bản, Malaysia và Chăm Pa trước khi biết đến chúng ta. Biển Đông là cách chúng ta đặt gọi vùng biển của mình vì biển này ở phía Đông. Nó được người Trung Quốc gọi là Nan Hai vì ở phía Nam của họ. Cách đặt và gọi tên này tự nó cho thấy tính địa phương mà thiếu tính quốc tế. Các nước Đông Nam Á gọi vùng biển này là Champa Sea. Rồi trên bản đồ tên Biển Chăm Pa được thay thành Biển Trung Hoa bởi người Bồ Đào Nha, lúc đó là cường quốc số một về hàng hải, vẽ bản đồ là Mar Da China. Sau này đổi thành biển Nam Trung Hoa để phân biệt với vùng biển phía bắc.
Quay lại lợi thế địa lý. Vì các lý do cấm xuất nhập khẩu ở Nhật, cấm đạo ở Nhật và Trung Quốc, tự nhiên Phố Hiến và Hội An trở thành hai thương cảng lớn, đặc biệt là Hội An. Các tàu buôn và truyền giáo bắt đầu đi từ Mallaca, Macao và Nhật bản đến Hội An và Phố Hiến.
Phố Hiến còn là nơi tụ tập của thương nhân Hoa bởi triều đình, lúc đó là chúa Trịnh, cấm tiệt người Hoa sống ở Kẻ Chợ.
Người Châu Âu coi hai xứ này là hai nước riêng biệt. Nước của Vua Nguyễn là Cochinchina. Nước của vua Lê và Chúa Trịnh là Tonkin. Bất chấp nguồn gốc của hai cái tên này, nhưng khi dịch ra tiếng Việt thì Cochinchina phải là Vương Quốc Đàng Trong (Xứ Đàng Trong, Nam Hà, Nam Kỳ, Nam Bộ) còn Tonkin phải là Vương Quốc Đàng Ngoài (Xứ Đàng Ngoài, Bắc Hà, Bắc Kỳ, Bắc Bộ). Tên riêng Gulf of Tonkin hiện vẫn còn tồn tại.
Cochin là cách đọc tên Giao Chỉ bằng tiếng Malay rồi phiên âm qua tiếng Bồ. Cochinchina là Nước Giao Chỉ thuộc Trung Hoa, nhưng chỉ đây là tên gọi của người Âu cho mảnh đất này, bản chất cái tên này chỉ là để gọi vùng đất Đàng Trong. Sau này xứ Đàng Trong (Cochinchina) sáp nhập với Miền Tây (của Mạc Thiên Tứ) và được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Nam Phần, Nam Kỳ, Nam Bộ … và rồi hiện nay được gọi là Miền Nam.
Có một chi tiết là trong cuộc cạnh tranh chiếm đất thuộc địa của Anh và Pháp nhân lúc Bồ Đào Nha suy yếu, người Anh đã đến Việt Nam (ngày nay) rất sớm. Họ đã chiếm Côn Đảo (đặt căn cứ hải quân, văn phòng thương mại) mấy năm rồi lại bỏ đi. Họ cũng đặt văn phòng thương mại ở Phố Hiến, rồi Kẻ Chợ, rồi cũng bỏ đi. Người Hà Lan cũng bỏ xứ Đàng Ngoài mà đi. Người đến sau, là người Pháp, cuối cùng lại là kẻ chiếm miền đất này. Khi người Pháp đến Côn Đảo hơn 100 năm sau, họ còn thấy tàn tích nhà cửa pháo đài do người Anh xây dựng. Có lẽ ở gần cái vũng phía đầu sân bay Cỏ Ống bây giờ. Ở Côn Đảo có một mũi là mũi Tàu Chìm hay gì đó, có lẽ là tàu của quân Anh đến đây và bị đắm.
Trước khi Nguyễn Huệ nổi lên như một thế lực thì đã có những người Châu Âu buôn súng đại bác bán cho Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh). Có cả người Bồ ở lại xứ Đàng Trong, mở xưởng đúc đại bác ở gần Huế để bán cho vua Đàng Trong. Người nước ngoài cho rằng người Việt học nghề và làm nghề giỏi. Chỉ cho họ cách làm là họ có thể làm được. Người nước ngoài cũng cho rằng xứ Đàng Ngoài quá nghèo, không có vốn, họ làm được nhiều thứ để xuất khẩu, nhưng phải đặt hàng và ứng tiền thì họ mới làm. Điều này khiến cho quay vòng vốn rất chậm. Sản lượng xuất khẩu thấp. Họ cũng nhận thấy phụ nữ thích lấy người Châu Âu, kể cả với giá rẻ, để sinh con lai cho đẹp. Giá rẻ là vì hồi đó có thể bán vợ. Đàn ông nghèo, bán vợ cho các nhà buôn nước ngoài vài tháng, khi họ đang ở Phố Hiến hoặc Kẻ Chợ để đợi giao hàng.
Tất cả các thuyền bè, của hải quân, nhà buôn hay truyền giáo. Đến Đàng Trong hay Đàng Ngoài, từ Macao, Mallaca đều đi qua một bãi đá ngầm lớn rồi vào cửa biển Hội An hoặc ra bắc vào cửa Thái bình rồi đến Phố Hiến. Bãi đá ngầm lớn này dần dần được ghi trên bản đồ là Paracel rồi là Paracel và Spratly. Bãi đá ngầm này được người Châu Âu cho rằng thuộc về Xứ Đàng Trong. Không phải vô cớ mà khi thống nhất đất nước, Nguyễn Ánh Gia Long, xác lập lãnh thổ của Việt Nam trên các hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc, Côn Đảo … Như vậy khi nói đến  Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa) ở thời kỳ này thì phải nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Vương Quốc Đàng Trong (Cochinchina) của các Vua Nguyễn.
VI. Lại quay về với năm 1946
Hiệp ước mùng 6 tháng 3 cho quân đội Pháp quay lại Đông Dương với người đứng đầu cực kỳ quyền lực (Cao Ủy) là đô đốc hải quâncó cái tên dài lòng thòng là George Louis Marie Thierry D’Argenlieu. Ông này chống lại yêu cầu đòi thống nhất Nam Bộ của chính phủ Hồ Chí Minh. Đàm phán giữa hai phe diễn ra ở Đà Lạt nhưng thất bại. Đọc hồi ký Ký vãng Đà Lạt của Hoàng Xuân Hãn sẽ thấy không khí giai đoạn này. Để vứt Hiệp định sơ bộ Pháp Việt vào sọt rác D’Argenlieu thản nhiên dựng Nam Kỳ  Cộng Hòa Quốc (Cộng Hòa Đàng Trong / Republic of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm President . Nguyễn Văn Thinh có quốc tịch Pháp và là thành viên  nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Chính phủ bù nhìn này theo trường phái ly khai Nam Bộ nên bị các nhóm chống Pháp có vũ trang, từ Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và cả Việt Minh xúm lại đánh đập. Lực lượng của Việt Minh lúc này do siêu sao Nguyễn Bình, vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng cũ, lãnh đạo. Các hoạt động vũ trang trong nội thành của Nguyễn Bình chính là mẫu hình cho các vụ đánh bom của Biệt động Sài Gòn sau này. Ý tưởng về một Liên bang Đông Dương gồm 5 bang (state) bao gồm Lào, Cambodia, Cochinchina, Annam, Tonkin nằm trong Liên hiệp Pháp (French Union) hình thành ở giai đoạn này.
Uy tín và tài năng cá nhân của Nguyễn Bình đã thống lĩnh được các lực lượng vũ trang chống Pháp vốn rất lộn xộn và hiềm khích nhau ở Nam Bộ, xây dựng Vệ quốc đoàn, đánh đập Pháp và chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ rất tàn nhẫn. Nhờ đó khi Hồ Chí Minh khi đi Pháp đã có những thỏa thuận (với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Nam Kỳ. Nguyễn Văn Thinh tự sát.
Sau Hội nghị Đà Lạt và trước hội nghị Fontainebleau, D’Argenlieu đến Hà Nội gặp Hồ Chí Minh ngày 19/5/1945.  Trước đó một ngày, ngày 18/5, báo Cứu Quốc đăng bài “Cụ Hồ Chí Minh với dân tộc Việt Nam” trong đó đầu tiên họ “tiết lộ” ngày sinh của vị chủ tịch là ngày 19/5  để hôm sau Hà Nội treo cờ hoa. Các thương thuyết Pháp Việt (Việt Minh) dùng dằng mãi rồi thất bại, chiến tranh Pháp Việt (Đông Dương lần thứ nhất) nổ ra. Chính phủ Việt Minh quay thủ phủ cũ của họ là Tân Trào.
VII. Hình thành Việt Nam Cộng Hòa
Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, chỉ trong thời gian ngắn, để thay thế Pháp lần lượt lắp Lê Văn Hoạch (Cao Đài) rồi Nguyễn Văn Xuân vào chỗ trống. Tất cả các nhân vật miền nam thân Pháp này, lại hùa với nhóm chống Việt Minh đang lưu vong ở Tàu, cùng nhau ủng hộ Bảo Đại. Bảo Đại lúc này ở Hong Kong (1947) và bắt đầu có tín hiệu muốn đàm phán với Pháp. Trong quá trình này, Pháp xây dựng Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ với tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.
Nguyễn Văn Xuân có quốc tịch Pháp và là thiếu tướng trong quân đội Pháp, trở về Việt Nam khoảng tháng 8 năm 1947. Tháng 9 thì bác sỹ Lê Văn Hoạch từ chức, Hội đồng tư vấn Nam Kỳ bầu Nguyễn Văn Xuân lên thủ tướng ngày 1 tháng 10 năm 1947. Nguyễn Văn Xuân đổi tên Nam Kỳ thành Nam Phần. Cũng như bác sỹ Thinh và bác sỹ Thạch, tướng Xuân lên nhậm chức là  tỏ rõ ý đồ thống nhất ba miền thành một nước Việt Nam. Nguyễn Văn Xuân không nói được tiếng Việt, nhưng làm việc giỏi, có ý đồ. Tháng 12, thủ tướng Xuân qua Hongkong gặp Bảo Đại bàn việc mở Chính phủ trung ương lâm thời (Provisional Central Government of Vietnam). Tên của chính phủ đã cho thấy chính phủ mới này chỉ là tạm thời, lấy chính danh để đàm phán với Pháp đòi thống nhất ba miền và độc lập cho Việt Nam.
Đại hội đảng phái và nhân sĩ cả nước họp tại Sài Gòn 20 tháng 5 năm 1948 bao gồm Hội đồng tham nghị Nam Phần, Hội đồng chấp tranh Trung phần và Bắc phần, các đoàn thể đảng phái khác. Đại hội bầu Nguyễn văn Xuân làm Thủ tướng chính phủ lâm thời. Ngày 27 tháng 5, chánh phủ mới qua  Hongkong gặp Bảo Đại. Ngày 2 tháng 6 năm 1948 chính phủ ban hành Hiến pháp tạm thời (Provisional status), trong đó quy định quốc kỳ (cờ vàng ba sọc, biến thể từ cờ quẻ ly), quốc ca (Thanh niên hành khúc của Lưu Hữu Phước). Tháng 6 năm 1948, Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại ra Hạ Long ký hiệp định Hạ Long với Cao ủy Pháp lúc này là Bollaert. Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại đều trưởng thành và được đào tạo ở các trường đại học hàng đầu của Pháp, lại quen sống với giới thượng lưu của Pháp, nên thái độ đàm phán với Pháp rất tự tin, khác hẳn đàm phán ở Đà Lạt. Về những điểm đàm phán thể hiện độc lập và thống nhất ba miền, Bollaert tỏ ý đe dọa, Nguyễn Văn Xuân chửi thẳng bằng tiếng Pháp, còn Bảo Đại nói những câu khinh thường. Ngày 5 tháng 6 ký xong, ngày 15 tháng 6 Thủ tướng Xuân qua Pháp. Từ đây bắt đầu đàm phán với Pháp, đến 25 tháng 4 năm 1949 mới xong.
Chính phủ Việt Minh phản đối dữ dội chính phủ Nguyễn Văn Xuân và gọi đây là chính phủ bù nhìn. Một vở kịch của Thế Lữ thời kỳ này chế diễu tướng Xuân rất buồn cười với việc “kéo mũi ra cho lõ như Tây”.
Đàm phán Pháp – Việt (Việt của Bảo Đại) đi đến hiệp ước Elysée. Pháp trao trả độc lập (pháp lý) và toàn vẹn lãnh thổ (tương đối) cho Việt Nam. Pháp vẫn nắm ngoại giao, quân đội, kinh tế và tiền tệ. Đồng thời tạo ra khu tự trị cao nguyên. Hiệp ước được quốc hội Pháp thông qua và ký tháng 3 năm 1949. Ba tháng sau Bảo Đại về Sài Gòn nhận chức quốc trưởng của một nhà nước mới toe: Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam). Tất nhiên trên thực tế, chính quyền mới này không can thiệp vào được các vùng do chính phủ Việt Minh đang kiểm soát.
Cũng trong năm 1950, nhờ Mỹ Anh tài trợ và được De Lattre ủng hộ, quân đội của Quốc Gia Việt Nam bắt đầu được hình thành. Nguyễn Văn Hinh, một sĩ quan không quân Pháp và có quốc tịch Pháp làm Tổng tham mưu trưởng đầu tiên với hàm thiếu tướng. Năm 1955 tướng Hinh bất đồng với Ngô Đình Diệm, trở về Pháp, tham gia quân đội Pháp, về hưu với hàm đại tướng quân đội Pháp.
VIII. Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Đông Dương.
Giai đoạn này chính trị thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô và học thuyết của họ lúc đó là học thuyết (chủ nghĩa) Zhdanov (rất thô và đơn giản) đã chia thế giới theo một cách hết sức ngô nghê: chia thành hai phe. Phe Đế Quốc do Anh Mỹ đứng đầu, và phe Dân Chủ do Liên Xô đứng đầu. Để phát triển xã hội, học thuyết Zhdanov khuyến khích đấu tranh giai cấp không khoan nhượng. Tiếp đó cách mạng bạo lực của Mao thành công ở Trung Quốc, đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đảo. Trung Quốc và Liên Xô công nhận chính phủ Việt Minh (1949). Mỹ và Anh công nhận chính phủ của Bảo Đại (1950). Tính chính danh của hai chính phủ ở hai miền hình thành ở giai đoạn này và để lại di sản cho các giai đoạn kế tiếp. Đó cũng là lúc thế giới bước vào Chiến tranh lạnh.
Các học thuyết của Mỹ ở thời điểm này bắt đầu cho Đông Dương vào vòng ngắm. Theo Stanley Karnow, tháng 5 năm 1945, ngay sau khi Truman vào Nhà Trắng thế chỗ cho tổng thống Roosevelt qua đời, ngoại trưởng Edward Stettinius của Mỹ đã khẳng định với ngoại trưởng Pháp lúc đấy là George Bidault rằng Mỹ sẽ công nhận các đòi hỏi quyền lợi của Pháp ở Đông Dương. Sáng kiến của Truman tại Quốc hội ngày 12 tháng 3 năm 1947 về việc hỗ trợ người dân tự do, sau được gọi là học thuyết Truman, làm căng thẳng thêm chiến tranh lạnh. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, Bắc Hàn tấn công Nam Hàn và bốn ngày sau chiếm Seoul. Sáu tháng trước đó Mao thắng thế toàn diện ở Trung Quốc và cùng Liên Xô công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Bốn ngày sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ,  ngày 28 tháng 6, Truman ký lệnh tăng tốc hỗ trợ Pháp. Một ngày sau đó 8 chiếc máy bay vận tải C-47 của Mỹ bay tới Bắc Việt và tham gia “trái luật” vào chiến tranh Đông Dương. Phải tới ngày 26 tháng 7 năm 1950 tổng thống Truman ký luật hỗ trợ quân sự cho Pháp và được Quốc hội Hoa kỳ thông qua. Mỹ đã chi gần 3 tỷ dollar để viện trợ cho Pháp ở Đông Dương trong 4 năm sau đó. Các phái đoàn cố vấn quân sự, kinh tế của Mỹ bắt đầu đến Sài Gòn. Tiền và vũ khí Mỹ, chuyên gia Mỹ, được dùng để bắt đầu xây dựng Quân đội cho  Quốc gia Viêt Nam ở phía nam và choquân đội Pháp đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc. Các hoạt động của Edward Lansdale tốn kém lên tới hàng triệu dollar vẫn được tài trợ.
IX. Điện Biên, Geneva, và gia đình họ Ngô ở miền nam.
Từ năm 1950 đến năm 1954, khi Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì đánh Pháp ở rừng núi Bắc Bộ thì ở Nam Bộ quốc trưởng Bảo Đại một mặt xây dựng chính quyền của mình, vốn nhiều phe phái không đồng nhất, mặt khác kiên trì  tiếp tục đàm phán với Pháp đòi hỏi độc lập thực sự của Việt Nam.
Bảo Đại là một ông vua, tức là như Dumas nói: vua là quý tộc của các quý tộc. Bảo Đại có các phẩm chất cao quý nhất của con người: thông minh, tinh tế, hiểu người, hiểu đời. Bên cạnh đó, Bảo Đại được đào tạo đầy đủ về khoa học chính trị ở Sciences Po bên Pháp. Điểm yếu của Bảo Đại, cũng là tính quý tộc: mê đánh bài, mê gái, mê săn bắn, mê ngao du. Bảo Đại hiểu chính trị và biết dùng chính trị gia. Nhưng bản thân Bảo Đại lại muốn ở trên và bên ngoài mọi đảng chính trị, lại lười việc nước, ham chơi, không muốn làm lãnh đạo đất nước. Làm quốc trưởng, Bảo Đại cũng ở Đà Lạt đi săn, mọi việc thả cho Thủ Tướng làm.
Đây là thời kỳ thú vị của Sài Gòn. Không khí chính trị mới mẻ, các lực lượng quân sự hùa về với Bảo Đại, kinh tế ngầm liên quan đến buôn thuốc phiện do mafia đảo Corse nắm. Nhóm người Corse này lại kết nối với lực lượng bảo vệ an ninh đô thành, là nhóm Bình Xuyên. Bình Xuyên lại làm cả bảo kê gái và song bài. Bảo Đại sống bằng tài trợ của Pháp và Bình Xuyên. Sài Gòn như một thành phố quốc tế, đầy rẫy bọn buôn lậu và điệp viên. Graham Greene qua Sài Gòn vừa làm báo, vừa làm điệp viên, vừa hút thuốc phiện. Phạm Xuân Ẩn làm cho phòng nhì, kiểm soát bằng cách đọc lén thư từ của chính Greene. Ở ngoại ô, quân Việt Minh do Nguyễn Bình vẫn đánh Pháp. Lê Duẩn nắm Xứ Ủy, và theo KW Taylor, Lê Duẩn còn phải kiềm chế Nguyễn Bình. Một góc của Sài Gòn hồi đấy có thể thấy ở Sound of Silence.
Thủ tướng đầu tiên của Bảo Đại là Nguyễn Phan Long, thay cho Nguyễn Văn Xuân bởi Nguyễn Văn Xuân không nói được tiếng Việt. Nguyễn Văn Xuân làm phó thủ tướng cho đến khi chính phủ Nguyễn Phan Long hoàn thiện thì về Pháp. Nguyễn Phan Long là một người thuộc nhóm Lập Hiến, đòi Pháp trả độc lập hoàn toàn và tỏ ra thắm thiết với Mỹ. Ngay lập tức Pháp ép Phan Long nghỉ và thay bằng Trần Văn Hữu, một người nhà giàu quốc tịch Pháp (1950). Không ngờ Trần Văn Hữu ngày càng tỏ ra ái quốc, bỏ ra nhiều tháng đi Pháp (Pau) để tiếp tục tranh luận các điều khoản chưa rõ trong hiệp ước Élysée, đòi các quyền lợi kinh tế, quân sự, ngoại giao. Trần Văn Hữu chính là thủ tướng tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam như đã nói ở trên. Cuối cùng, tới năm 1952, Trần Văn Hữu làm việc thẳng với Anh Mỹ, khiến Pháp cay quá phải thay bằng Nguyễn Văn Tâm, một công dân Pháp và theo phe ly khai Nam Kỳ ngày trước.
Nguyễn Văn Tâm làm đến cuối năm 1953 thì từ chức, và đầu năm 1954 Bảo Đại bổ nhiệm Bửu Lộc, một người họ hàng của mình vào chức thủ tướng. Lúc này Bảo Đại đang ở Pháp để trực tiếp đàm phán về độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Chiến tranh Pháp Việt đang đi đến hồi kết. Quân của Võ Nguyên Giáp bao vây Điện Biên Phủ. Ở vùng mà Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm thì Đại Việt rất mạnh, đồng thời xuất hiện và trỗi dậy lực lượng của các linh mục Bùi Chu Phát Diệm. Ở Hà Nội, thị trưởng là Thẩm Hoàng Tín, một người nhà giàu gốc Hoa. Trong thời gian ông này làm thị trưởng (chấm dứt năm 1954) có sự kiện cầu Thê Húc bị sập (1952). Nguyễn Ngọc Diệm đã thiết kế và làm lại cây cầu này.
Cùng giai đoạn này Mỹ có các động thái tham gia sâu hơn ở Indochina. Theo cuốn CIA and the House of Ngo: Covert action in South Vietnam (1954-1963) của Thomas L. Ahern thì khi chiến tranh lạnh bắt đầu lạnh hơn, chiến thắng của Mao ở Trung quốc năm 1949 và chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6 năm 1950, Hoa Kỳ hỗ trợ vật lực diện rộng cho Pháp đánh Việt Minh. Năm 1950 cũng là năm quốc hội Pháp phê chuẩn việc xây dựng chính phủ Việt nam độc lập danh định (nominally independent) với quốc trưởng Bảo Đại. Đến cuối năm 1953, theo yêu cầu của Bộ trưởng ngoại giao John Foster Dulles, chính phủ Hoa Kỳ cam kết chi 400 triệu dollar cho Pháp ở Đông Dương. Hoa kỳ cũng nhận ra chính quyền mới ở miền nam, mà thủ tướng được bổ nhiệm là Ngô Đình Diệm không chỉ thiếu hệ thống và nhân lực hành chính để vận hành đất nước, mà còn thiếu cả các chính trị gia bản địa để thực thi quyền lực, cũng như không có quân đội. CIA, lúc này đã hình thành, và rất thành công ở Iran, Guatemala, Italy và Philippine bắt đầu đưa các ngôi sao của mình, trong đó có Lansdale đến Sài Gòn. CIA nhận ra họ không chỉ phải “establish a leader” mà còn phải “create a country”. Các hoạt động gây sức ép với Pháp để thành lập quân đội cho Việt Nam Cộng Hòa, hỗ trợ Ngô Đình Nhu phát triển đảng Cần Lao theo chiều dọc xuống “grass root”  …đều bắt đầu từ giai đoạn Mỹ bắt đầu tham gia vào Đông Dương và dần thay thế vai trò của Pháp.
Trong thời gian này anh em nhà họ Ngô phân công nhau mỗi người một việc. Sau khi được công an Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm ở nhà thờ Hàng Bột thêm một thời gian khá dài. Edward Miller lấy tin của mật thám Pháp cho biết Diệm ở lại lâu để  lôi kéo các nhân vật quan trọng trong chính phủ Việt  Minh, đặc biệt là lôi kéo Nguyễn Bình. Năm 1950 nhận thấy chính trị nghiêng hẳn về Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thoát ly khỏi quê hương cùng anh trai là Ngô Đình Thục. Điểm đầu tiên đến là Nhật và gặp hoàng thân Cường Để. Chuyến đi này thất bại, khi Diệm không tìm kiếm được gì từ nhóm Nhật thân Cường Để. Vả lại Cường Để qua đời sau đó vài tháng. Nhưng rất may cho Diệm, đi Nhật lại gặp nhà khoa học chính trị kiêm tình báo quân sự khu vực viễn đông của Hoa Kỳ tên là Wesley Fishel. Rời Nhật, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục đi Mỹ, thất bại trong tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ, lại bay tiếp qua Roma và Paris. Ở Paris chính Bảo Đại từ chối gặp Ngô Đình Diệm. Sau thất bại này, Ngô ĐìnhDiệm quay về Hoa Kỳ và ở lại khá lâu. Edward Miller dành một chương để nói về quãng tời gian Ngô Đình Diệm ở Mỹ. Trong thời gian này, Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn của Wesley Fishel đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là William O. Douglas. Douglas tổ chức ăn tối để Ngô Đình Diệm gặp gỡ các nhân vật chính trị trẻ, trong đó có thượng nghị sỹ Mike Mansfield và thượng nghị sỹ John F Kennedy (sau trở thành tổng thống Hoa Kỳ).
Cùng lúc đó ở trong nước, Ngô Đình Nhu, một người lạnh lẽo và đặc biệt thông minh, đã bí mật thành lập Cần Lao Cách Mạng Đảng với chủ thuyết Nhân Vị ở Đà Lạt, thông qua các hội thảo nhỏ với lượng khách tham dự rất chọn lọc (1949). Trong cuốn sách mới xuất bản cuối xuân 2013, cuốn Missalliance: Ngo Dinh Diem, The United States and the Fate of Sound Vietnam, Edward Miller than rằng có quá ít thông tin về Cần Lao, do hoạt động của họ quá kín đáo. Ngay cả các tài liệu của  mật thám Pháp và CIA giải mật gần đây cũng không tiết lộ được nhiều. Chỉ biết rằng Cần Lao bén rễ được vào chính phủ của Bảo Đại, vào quân đội của Quốc gia Việt Nam đang manh nha thành lập, vào các lực lượng công giáo.  Mặt khác, Ngô Đình Nhu xây dựng tờ báo Tinh Thần và đứng sau ngầm chỉ huy để tuyên truyền cho đường lối “cách mạng chính trị kinh tế”. Ngô Đình Nhu cũng xây dựng các quan hệ vững chắc và dài lâu với giới lao động thông qua lãnh đạo nghiệp đoàn (Trần Quốc Bửu) và báo của họ (tờ Xã Hội), nắm được giới trí thức elite Bắc Kỳ chạy vào Nam Kỳ (Trần Chánh Thành). Và với quân đội thì thậm chí ngay khi Trường Võ bị Đà Lạt (Học viện quân sự Đà Lạt) mới được  thành lập, Nhu đã đến phát biểu, qua đó gây ảnh hưởng đến các sỹ quan trẻ sau này. Theo Edward Miller, đến cuối năm 1953, mặc dù hoạt động ngầm nhưng mạng lưới chính trị của Ngô Đình Nhu đã trải khắp Indochina. Từ đó Ngô Đình Nhu lôi kéo được các thủ lĩnh các phe vũ trang chống cộng, ủng hộ Ngô Đình Nhu và rời xa Bảo Đại, lúc này đang ở Pháp.
Chính sự lớn mạnh về lực lượng chính trị của anh em họ Ngô ở trong nước, đã làm Bảo Đại phải cân nhắc về nhân vật vốn chống mình rất dữ dội là Ngô Đình Diệm.
Vào phút cuối cùng, Việt Minh thắng Điện Biên, còn ở Pháp Bảo Đại đạt được thỏa ước tối đa với Pháp Ngày 4 tháng 6 năm 1954, người Pháp, vốn cứng đầu, lèm bèm và ti tiện, đến lúc này mới trả độc lập toàn bộ cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Bảo Đại, với quyết định vừa lười nhác vừa dũng cảm, vừa sáng suốt, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại biết trước một người tham vọng như Ngô Đình Diệm sẽ làm lãnh đạo quốc gia tốt hơn một ông vua ham chơi, và tất nhiên việc Diệm sẽ phế quốc trưởng Bảo Đại là một điều chắc chắn. Từ đó không bao giờ Bảo Đại quay về trong nước.
Sau khi được bổ nhiệm, Ngô Đình Diệm bay về Sài Gòn và lập chính phủ, ra mắt quốc dân ngày 7 tháng 7 năm 1954. Phần tiếp theo xem tại “Luận văn của ông Nhu“.
Hai tuần sau hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21 tháng 7), chia đất nước thành hai nửa.
X. Những gạch nối.
Chỉ trong hơn 50 năm mà Việt Nam thay đổi quá nhiều.
Từ Đại Nam của nhà Nguyễn sau khi bị Pháp chiếm mà trở thành Annam, Đông Dương thuộc Pháp,  rồi thành Việt Nam. Việc tiếp xúc với phương Tây đã mang đến cho Việt Nam nhiều cái tên xa lạ và khó hiểu: Cochinchina để chỉ Đàng Trong, Tonkin để chỉ Đàng Ngoài, và Indochina để chỉ chung ba nước Đông Dương. Chữ Indochina ấy, sau này làm khó cho cán bộ của Cường Để cử qua Anh và Đức để vận động, bởi người Anh và Đức, rồi sau là Mỹ, rất khó hiểu với địa danh mơ hồ nửa Ấn Độ (Indo) nửa Trung Hoa (China) này. Nó cũng khó hiểu chẳng kém việc người Việt hiểu tại sao Đàng Trong lại là Cochinchina.
Từ một đất nước chỉ có hai đàng: Đàng Trong và Đàng Ngoài, rồi có thêm kinh đô Huế ở giữa, đến thời Pháp thuộc trở thành ba miền Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đến thời Nhật bảo hộ Trần Trọng Kim mà trở thành Nam Bộ, Bắc Bộ, Trung Bộ.
Việt Minh lấy chính quyền từ tay Trần Trọng Kim, nên xứ ủy phía nam của ĐCS Đông Dương là xứ ủy nam kỳ, khởi nghĩa đánh Pháp của họ năm 1940 là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nhưng sau năm 1945 họ lại có Nam Bộ Kháng Chiến, lại có ảnh lịch sử cướp chính quyền ở Bắc Bộ Phủ, rồi lại có cả sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Ngày nay các bản tin thời tiết trên VTV vẫn dùng các từ này.
Còn chính phủ Nguyễn Văn Xuân do Pháp bảo hộ lại gọi Nam Phần, Bắc Phần, Trung Phần. Nên sau này VNCH tiếp nối chính phủ Nguyễn Văn Xuân dùng các từ như vậy, nên ta có các danh từ kiểu Cao nguyên Trung phần.
Việt Nam từ một nước không có “giờ”, cho đến khi Pháp ở Paris theo hiệp ước quốc tế múi giờ (1911) mà Nam Kì lần đầu tiên theo giờ chuẩn thế giới (GMT+7), nhưng đến 1942 thì Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Phnom Penh, Vienchan …mới chính thức (bằng văn bản luật) theo giờ Đông Dương thuộc Pháp (GMT+8). Đến lúc Nhật đảo chính, Đông Dương theo GMT+9 của Nhật. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, vùng Việt Minh kiểm soát là GMT+7 còn vùng Pháp tái chiếm là GMT+8. Sài Gòn trước 75 là GMT+8, Hải Phòng trước 1955 là GMT+8. Hà nội trước 1954 là GMT+8 và sau 1954 là GMT+7.
Không phải cái gì của lịch sử cũng tồn tại vượt qua thời gian đến hiện tại hôm nay. Nhưng cái gì tồn tại được thì hẳn là quan trọng, bởi đó là cái quá khứ làm nên hiện tại. Và một phần nào đó của hiện tại sẽ trở thành lịch sử khi góp phần tạo dựng tương lai.
***