Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014

Truyện "Hồng Bàng Thị và cội nguồn Thần Nông của dân tộc”

- Truyện về Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, đẻ ra bọc trăm trứng, nửa lên rừng, nửa xuống biển là một biểu tượng thần thoại của Bách Việt…

Nhân dịp Giỗ tổ Hùng Vương năm nay, Dân Việt xin giới thiệu bài viết của Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vỹ (giảng viên Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) về “Truyện Hồng Bàng Thị và cội nguồn Thần Nông của dân tộc”.

Truyện Hồng Bàng Thị nằm trong tác phẩm Lĩnh Nam chích quái cổ xưa và được đưa vào Đại Việt sử kí toàn thư. “Hồng – Bàng – Thị”, ba chữ đó đối với chúng ta ngày nay quen thuộc và hiển nhiên như một danh từ riêng chỉ về một thời đại đầu tiên, thời đại cội nguồn của dân tộc Việt Nam.
Hùng vương (Hình minh hoạ)
Hùng vương (Hình minh hoạ)

Hồng, chữ Hán so nghĩa là to lớn, cũng có nghĩa là trận lụt lớn bao trùm toàn cầu, đồng nghĩa với hồng thủy (theo Hán – Việt tự điển của Thiều Chửu). Bàng, chữ Hán có nghĩa là to lớn mênh mông, rộng trùm vũ trụ.

Điều gì đã xảy ra khi hai chữ Hồng và Bàng này kết hợp lại để chỉ thời kì khởi nguyên của dân tộc? Không gì khác hơn đó chính là biểu tượng thần thoại phổ biến toàn thế giới (Vũ trụ Khaox: Vũ trụ khởi nguyên mênh mông mù mịt và hỗn mang, bắt đầu của mọi bắt đầu).

Ở các cộng đồng khác nhau trong khối Bách Việt, phía Nam Dương Tử, đều có biểu tượng này, nằm dưới cách diễn đạt vừa trực quan sinh động vừa khái quát. Mọi thần thoại đều hướng về hỗn mang theo tư duy suy nguyên. Cũng như mọi lịch sử thế giới đều bắt đầu bằng thần thoại.

Trước mắt các trí thức Lý – Trần là kho tàng thần thoại phong phú của miền Lĩnh ngoại khác Hán. Trong tim họ là tấm lòng yêu nước thiết tha. Trong óc họ là yêu cầu khái quát lịch sử. Trong tay họ lúc đó là những quy thức từ chương học chữ Hán.

Một phát kiến không thể súc tích hơn: ba chữ Hồng – Bàng – Thị.

Nó tích lũy như một symbol, một biểu tượng, một phù hiệu cao quý mãi mãi, trang trọng theo đầu nguồn lịch sử dân tộc, mà không một thế lực nào từ đó có thể hạ xuống. Trong lòng nó, tích lũy cả một kho tàng thần thoại. Nó chính là phát kiến của Đại Việt, dù là được viết bằng chữ Hán. Một khẩu hiệu vĩnh hằng về độc lập dân tộc.

Phát kiến này đã đưa thẳng Đại Việt thành một quốc gia bình đẳng với các quốc gia khác trong khu vực lúc đó. Hồ Chủ tịch cũng nói: “Hồng Bàng là Tổ nước ta”.
Trống đồng Đông Sơn
Trống đồng Đông Sơn

Điều đáng nói ở đây là, ba chữ Hồng Bàng Thị chắc chắn không phải là một phát ngôn tự sự thông thường ở cấp độ từ vựng. Đây là một kiểu tự sự khác, tự sự trầm tích, tự sự ẩn dụ. Nhận xét nó đơn giản như một tên truyện là một nhận xét thô sơ.

Hãy đặt nó trong một hệ thần thoại Mường, Thái, Kinh, Tày và thậm chí là Ê đê, Gia rai, Mơ nông,… thì sẽ thấy rằng, nó đang tự sự với chúng ta những thông tin trầm tích cực kì quan trọng. Và ta hãy thử tiếp tục đọc kiểu tự sự này.

Từ đầu, truyện cho hay: Cháu ba đời của Viêm đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam lấy con gái Vụ Tiên sinh ra Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương tài trí thông minh được Đế Minh yêu mến định trao ngôi báu nhưng vua không nhận, nhường nước cho anh là Đế Nghi. Đế Minh phong cho Kinh Dương Vương làm vua phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.

Chúng ta tạm dừng ở đây để xem đoạn văn thông báo những nội dung trầm tích nào.

Bắt đầu từ Thần Nông Viêm Đế. Thần Nông là tên chòm sao phương Nam của địa cầu. Trong Ngũ đế Trung Hoa, Thần Nông là đế phương Nam. Thần Nông còn có đế hiệu là Viêm Đế, với nghĩa là đế ở xứ nóng, xứ Mặt Trời. Cội nguồn dân tộc ta là ở phương Nam, xứ nóng, chúng ta là con cháu Mặt Trời. Lại một tích hợp thần thoại khởi nguyên của cư dân phương Nam.

Người phương Nam nghĩ gì khi khắc khuôn mặt trống đồng trên bàn xoay: bắt đầu bằng mặt trời và cuộc sống sẽ xoay quanh, sẽ lan tỏa từ mặt trời. Sử thi Mường, Thái kể sau buổi hồng hoang sẽ là gì nếu không là sự ra đời của trời, đất, mặt trời, mặt trăng.

Nếu người Việt nói “Vua mặt trời”, người Mường nói “Mặt trời mặt sáng” thì kí tự chữ Hán sẽ là gì nếu không lựa chọn Viêm Đế - Thần Nông. Lại một sự lựa chọn biểu tượng nữa.
Giỗ Tổ Hùng Vương
Giỗ Tổ Hùng Vương.

Chúng ta vốn dân phương Nam, ở đó có Bách Việt mà hai Việt đại biểu trong đó là Việt của Đế Nghi (Bắc của phương Nam) và Việt của Kinh Dương Vương (Nam của phương Nam).

Kinh Dương Vương là vua của đất Kinh đất Dương vùng hồ Động Đình. Vấn đề Đông Nam Á phía Nam sông Dương Tử không chỉ bây giờ mới có mà các bậc túc nho đầu thời Đại Việt đã từng đặt ra. Chỉ có điều họ kí tải một cách súc tích dưới dạng biểu tượng mà thôi. Dòng dõi Mặt Trời sẽ sản sinh Mặt Trời. Đế Minh: vị đế của ánh sáng không gì khác hơn là một phân thân của Mặt Trời.

Trong một văn hóa, ở cấp độ biểu tượng hoa văn hình học, mặt trời tồn tại dưới nhiều hình vẽ khác nhau thì trong ngôn ngữ (hiện thực trực tiếp của tư duy) cũng vậy (hiện tượng đồng nghĩa thường thấy trong bất cứ ngôn ngữ nào). Đế Minh cũng là Mặt Trời. Đế Minh lấy Vụ Tiên mà sinh ra Kinh Dương Vương. Vụ Tiên là tên chòm sao vẫn gọi là sao Vụ Nữ nằm ngay đỉnh bầu trời Bắc Bộ Việt Nam. Vua lấy Sao để sản sinh ra các bậc kế nghiệp.

Ta hãy thử so sánh với sử thi thần thoại người Mường Đẻ đất đẻ nước thì thấy sự trùng hợp lạ lùng. Đó là các chương về lang Cun Cần lấy vợ. Là Lang nên Cun Cần có quyền lấy nhiều vợ.

Đầu tiên là nàng Đất nhưng rồi đất lại thành đất, lần hai là nàng Nước nhưng rồi nước thành sương mù, lần ba (quá tam ba bận) là nàng Sao ả Sáng ở tận Mường Trời mới sinh ra Lang Cun Khương nối nghiệp trị vì. Sau đó lang lấy em gái là Dạ Kịt sinh ra sâu bọ, muỗi vắt. Lại lấy nàng ử Tuội Vạn sinh ra đứa ăn người làm, cuông nhốc. Lần nữa ta lại thấy một thần thoại Việt Mường khác Hán, được tích lũy dưới dạng biểu tượng súc tích. Tên riêng đâu chỉ là tên riêng của sự thông thường.

Kinh Dương Vương đã lấy Thần Long Nữ, con gái Động Đình Quân mà sinh ra Lạc Long Quân. Lại là một huyền thoại phương Nam, vùng hồ Động Đình, dẫu mô típ của nó đã được từ thư Trung Hoa ghi sớm trong Liễu Nghị truyện, truyền kì đời Đường. Nhưng vì trong ý thức vững bền của các trí thức Đại Việt, hồ Động Đình luôn thuộc về đất nước ta nên họ đã tiếp thu huyền thoại người lấy rắn mà họ biết là rất quen thuộc của văn hóa và tín ngưỡng phương Nam này.

Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, cũng là một biểu tượng thần thoại, phổ biến thế giới và phổ biến vùng Bách Việt, mà sử thi Mường cũng như truyện Quả bầu mẹ phổ biến vùng này là một minh chứng. Trong sự hồ nghi của tư tưởng Nho giáo, chúng ta lại gặp một kiểu phản ánh ẩn dụ của câu chuyện.

Cuối cùng là bọc trăm trứng, một biểu tượng quen thuộc như quả bầu (Thái), trứng chim (Mường), bọc thịt (Mèo) sản sinh ra con người. Chưa kể tên riêng Lạc Long Quân (Rắn, Vua Khú của người Mường), Âu Cơ (chim của Mường, tô tem trên trống đồng) v.v… ta thấy lại trong một tự sự ngắn gọn, rất ít chữ, hàm chứa trong đó một kho tàng thần thoại phương Nam phong phú.

Câu chuyện Hồng Bàng thị đã vượt hẳn khỏi lí thuyết tự sự thông thường. Trong một dung lượng chật hẹp số chữ, tầng tầng lớp lớp những biểu tượng thần thoại, biểu tượng văn hóa, nếu xếp thể loại cho câu chuyện này, mọi lí lẽ sẽ có nguy cơ phiến diện, thô sơ.

Tác giả không chỉ là người sáng tác nghệ thuật ngôn từ. Trường hợp đặc biệt của lịch sử biến họ thành những người luyện đan. Sản phẩm của họ sẽ trường tồn và luôn luôn kêu gọi sự khám phá vì trong đó còn nhiều quy luật sáng tạo chưa được phát hiện.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét