còn cơ hội nào cho ngành KHXH&NV? 7-10-2013
I / CŨNG CHỈ LÀ MỨC ĐỘ….. THÔNG THƯỜNG.
Trong đời sống văn chương học thuật ở ta, luôn luôn người ta thấy có
những hiện tượng tạm gọi là chệch hướng, còn chữ của giới chính thống là
sai lầm hư hỏng chống đối. Rồi có sự tố giác phê phán. Rồi sau vài lời
nói qua nói lại và có khi cả những “chiến dịch đấu tranh” kèm theo là
những xử lý, dư luận lại rơi vào im ắng cho đến khi … có những vụ mới.
Vụ Mở miệng và luận văn Nhã Thuyên thuộc loại ấy.
Về
khâu xử lý, tôi nhớ thời chống Mỹ, cả Lưu Quang Vũ lẫn Phạm Tiến Duật
đều có những chuyện lôi thôi khiến một hai năm bị cấm in trên các báo.
Tức là hình thức xử lý còn nặng hơn rất nhiều so với cách chức hoặc cho
thôi việc thời nay.
Đặt trên cái nền chung, thấy tình hình chung quanh vụ luận văn về “Mở miệng” hôm nay còn là ở mức …có thể hiểu được.
Điều tôi cho rất đáng hoan nghênh là, khi nhìn nhận vụ việc,
nhà nghiên cứu Từ Huy đã không dừng lại ở hiện tượng cụ thể mà nhân đó
nêu ra nhiều vấn đề chung của giới KHXH. Tôi cho là một sự triển khai
cần thiết. Trong phạm vi bài này, tôi thử đi vào giải thích tại sao
giới nghiên cứu KHXH VN đã có những ứng xử như tất cả chúng ta đã
thấy.
Cả giới đã được đào tạo để trở thành như thế.
Nhắc tới mấy năm 1956-58, ngày nay chúng ta chỉ nhớ tới vụ Nhân văn Giai phẩm , và những ảnh hưởng của nó tới giới sáng tác.
Nhưng
thời điểm trên cũng là bước ngoặt trong giới ở ta đại học ở ta, rõ nhất
là giới nghiên cứu các bộ môn thuộc khoa học xã hội.
Sự
phát triển trước đó của đại học là tự phát. Nay nền đại học non trẻ và
“tiên thiên bất túc”, “bất thành nhân dạng” về nhiều phương diện ấy,
được làm lại với những chủ đích rõ ràng.
Nếu ở các nước khác, đại học là khu vực cuộc sống được thể nghiệm, khu vực tự trị, khu vực dân sự điển hình, thì
ở ta nó được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt cũng như sự can thiệp
mạnh mẽ và trực tiếp của chính trị. Các cơ sở đại học phải trở thành
những “pháo đài xã hội chủ nghĩa” như chữ nghĩa hồi 1958-60 vẫn dùng.
Lý do thì, như chỉ dẫn của một tác giả Nga mà tôi nêu trong bài viết
ngày 14-10-2013 trên blog này, KHXH được sinh ra như thế, nó phải như
thế, có gì là lạ. Nó cũng có nghiên cứu, nhưng là chỉ làm ở mức hết sức
sơ lược. Trong những lúc bốc đồng, hoặc cố ý làm dáng, người ta cũng
tuyên bố đi tìm chân lý, đứng về phía sự thật lịch sử …. . nhưng đó chỉ
là trong ao ước. Phần chính khoa học lúc này phải làm là những công
việc mà thần học trung thế kỷ vẫn làm. Nếu thần học cuối cùng phải
chứng minh được chỗ đúng của các kinh sách có liên quan tới Chúa thì
khoa học xã hội lúc này lấy việc đi vào minh họa cho cái đúng của thời hiện nay, cái đúng theo các chỉ thị nghị quyết, cái đúng của cấp trên…làm mục đich.
Trên đại thể là thế mà trong từng việc cụ thể cũng là thế.
Tôi
lấy một ví dụ. Vào những ngày hạ tuần tháng mười 2013, trên báo chí
đang rộ lên lời trách cứ các nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại về việc sao
không đưa tướng Giáp vào sách giáo khoa. Tôi xin thanh minh hộ các giáo
sư sử học thế này — họ đâu có quyền! Đây toàn là do chỉ thị từ trên
xuống cả. Thách kẹo cũng không có người biên soạn SGK dám viết khác và
các thầy lên lớp từ tiểu học tới đại học dám giảng khác.
Không có ngoại lệ
Đọc
bài của Từ Huy, ngay từ đầu, tôi đã không hiểu những lời ưu ái mà tác
giả đưa ra đối với khoa nọ của trường đại học kia. Rằng đó là nơi rất có
truyền thống tìm tòi chân lý. Rằng ở nơi đó luôn luôn có sự đón nhận,
làm “bà đỡ” cho những tư tưởng mới trong nghiên cứu văn chương.
Theo chỗ tôi biết thì hiện nay chẳng có một cơ sở nào như thế cả.
Cuối
bài, Từ Huy có nói tới tình trạng tạm gọi là “vượt thoát” và kể ra là
đã có những trường hợp khá thành công cả trong khu vực mà tác giả có
quan hệ.
Trước
hết là trong sáng tác, tôi thấy những trường hợp như Nguyễn Huy Thiệp,
như Bảo Ninh đúng là những nhân vật vượt thoát thành công thật. Nhưng
thử hỏi là sau họ làm gì có những tên tuổi nào khác.
Thứ
nữa, nay các tác tác giả này đã được các tài liệu chính thống công
nhận đâu. Trong xã hội, Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp vẫn được hoan
nghênh được in lại. Nhưng họ không bao giờ được đưa vào giảng dạy trong
nhà trường.
Khi
cần kể thành tựu của giới nghiên cứu, Từ Huy có phần lúng túng hơn.
Những ưu điểm tác giả nêu ra ở đây chỉ hạn chế trong việc sử dụng những
lý thuyết văn học ở nước ngoài vào để thúc đẩy tình hình trong nước.
Về mặt số lượng, tôi cho là người đi theo phương hướng này còn rất ít.
Hơn
thế phải nói thẳng là những thành công của nó còn ở mức rất khiêm tốn.
Trong những trường hợp tốt nhất thì chúng ta mới may mắn được coi là
những người thuộc bài, còn việc áp dụng những kiến thức đó vào việc
nghiên cứu văn học Việt Nam – xin lỗi cho tôi nói một cảm giác mà có thể
nhiều người không đồng ý – còn chưa có thành tựu nào đáng kể.
Trong
một bài viết gần đây, tôi có nói rằng giáo dục ở ta nói chung đang
trong tình trạng vô phương cứu chữa. Một trong những luận cứ của tôi là
giá kể bây giờ có chương trình đúng đắn, sách giáo khoa đúng đắn thì
cũng không lấy đâu ra người để dạy các chương trình đó cả. Và người ta
cũng không biết làm gì với hàng triệu giáo viên đang đứng trên bục giảng
hiện nay; ở họ, có một cái gì đó đã cứng lại rồi, họ không thể thay đổi
được nữa.
Với giới đại học cũng thế.
II/ THỬ XÁC ĐỊNH MỘT THỰC TRẠNG
Khi
điểm lại tình hình, Từ Huy có ngỏ ý “trách móc” rằng sao từ ngày xảy
ra cái vụ phê phán luận văn này, sau vài lời phản biện yếu ớt, trong
giới không thấy nhiều người lên tiếng.Trong khi tỏ ý lo lắng cho tình
hình từ nay về sau, tác giả thỉnh thoảng không quên giảng giải cho mọi
người thế này mới là nghiên cứu, thế kia mới là khoa học.
Tôi
thì tôi thấy cách cư xử của cả giới KHXH như vừa rồi là nằm trong bản
chất và lý do tồn tại của nghề nghiệp. Có một guồng máy đã hình thành,
họ vừa là sản phẩm, lại vừa là các thành tố góp phần vận hành guồng máy
đó. Bận lắm, quay cuồng lắm! Về chuyện nên làm thế nào, họ không có
thời gian mà nghĩ đến nữa. Cái phần tự vệ trong mỗi người luôn luôn mách
bảo họ rằng biết ra chỉ thêm phiền, tốt hơn là đừng nghĩ.
Cáo trạng và biện hộ
Đi vào cụ thể hơn.
Từ Huy tự hỏi nguyên nhân của vụ phê phán Luận văn về Mở Miệng xuất phát từ những hiềm khích cá nhân hay xuất phát từ một chủ trương
Trả lời: là chủ trương. Để mượn lại chữ của Từ Huy, chẳng có “nhát dao nào là mù quáng cả“.
Từ Huy cảnh báo: Điều
gây tuyệt vọng không phải chỉ là sự tái bùng nổ đáng ngạc nhiên của
những cây bút phê bình dao búa [ …] mà còn là (và có lẽ chủ yếu là) biểu
hiện của thái độ chấp nhận đầu hàng ở giới đại học. Chính sự chấp nhận
này rất có thể sẽ đẩy KHXH&NV vào tử lộ.
Trả
lời: Không đầu hàng sao được! Đến những Trần Văn Giàu Trần Đức Thảo
Nguyễn Mạnh Tường Đào Duy Anh Trương Tửu… cũng phải mất chức khi người
ta đã chẳng cần, nữa là những cá nhân mới nẩy nòi lên chính trong tay
nhà cầm quyền mấy chục năm nay. Dựng lên thành bụt đạp xuống thành đất ngay, chuyện đâu có lạ.
Còn
lo rằng, do đó, nó – bộ môn KHXH mà chúng ta đang quan tâm – sẽ suy
tàn ư ? khó lòng sống sót ư? Người ta đã đẻ, người ta sẽ nuôi. Cái
việc phù phép cho nó trở thành sống động đâu có quá khó. Người ta sẽ
biểu dương nó, khen ngợi nó. Cấp tiền nuôi nó. Ban cho nó danh hiệu.
Giới thiệu nó với giới khoa học quốc tế (còn việc quốc tế có công nhận
không thì không cần biết). Còn muốn gì nữa?
Từ Huy nhắc tới một chân lý: không có tự do học thuật thì khoa học không thể phát triển được.
Trả
lời: Trên nước Việt Nam này, không có thứ KHXH mà Từ Huy hiểu và các
nước người ta vẫn hiểu. Ngược lại, ở ta, cũng như ở nước Nga xô viết
trước đây, nó có một cái nghĩa riêng. Theo nghĩa này, tự nó vẫn phát
triển chứ đâu có dừng lại. Cái làm cho nó phát triển không phải là tự do
mà là các … mệnh lệnh chỉ thị hồi trước và và các đơn đặt hàng. Cái đó
thì hiện nay không thiếu, không bao giờ thiếu.
Từ Huy viết : Người
nghiên cứu cũng có quyền nhìn đối tượng theo cách của mình, có quyền
đưa ra một quan điểm nghiên cứu và chứng minh quan điểm đó bằng các lý
lẽ lập luận được thể hiện trong công trình của mình. Quan điểm đó đúng
hay sai, có thuyết phục người khác hay không, đó là chuyện cần phải
tranh luận, nhưng người nghiên cứu không thể bị vùi dập vì quan điểm
riêng.
Trả
lời: Không. Ở KH XH Việt Nam, khi đã nhận những chức danh như giáo sư
tiến sĩ , người ta không có quyền có quan điểm riêng, lại càng không có
quyền có quan điểm sai (so với cái đúng mà nhà nước quy định). Chỗ riêng
tư anh có vụng trộm nói khác nghĩ khác, tôi tạm tha. Nhưng công khai
thì không. Cái chuyện ăn đòn (= vùi dập) khi làm sai là chuyện đương
nhiên. Anh có vì thế mà chết cũng chẳng ai thương tiếc. Cố nhiên, người
đứng đắn thì sẽ ăn đòn xong lại đứng dậy, nhưng đó là việc riêng của
anh.
Sức sống dai dẳng
Từ Huy lo một khối băng giá đang ngự trị trong cả giới. Và tác giả đặt giả thiết:
Đằng
sau sự im lặng của giới đại học [ … ] có thể đọc thấy điều gì? Nỗi sợ
hãi? Sự hạn chế về năng lực chuyên môn? Sự tê liệt khả năng phản ứng?
Sự thờ ơ vô cảm (coi đấy không phải là việc của mình)? Sự chuẩn bị tâm
lý cho một quá trình chịu đựng vô điều kiện những áp đặt từ trên xuống,
bất kể những áp đặt đó phi lý như thế nào, một quá trình chịu đựng lâu
dài chưa biết bao giờ mới kết thúc?
Trả
lời: Tất cả sự dự đoán của tác giả là đúng. Nhưng cần biết thêm, cách
phản ứng của con người hiện nay nói chung — chứ không phải riêng của các
“nhà” KHXH — bị điều kiện hóa rất chặt chẽ và đó chỉ là một bộ phận
trong sự chịu đựng hàng ngày. Đừng quá hy vọng ở họ. Họ sẽ chẳng chết
như đã chẳng sống. Họ sẽ như thế này… mãi. Và sống có lý có lẽ, có sự tự
tin cẩn thận.
Hồi
chống Mỹ, miền Bắc tức “bên thắng cuộc” sống trong một tình thế bị cắt
đứt hoàn toàn với giới khoa học bên ngoài. Phía tư bản thì những Freud,
Kafka, Sartre, Camus , Levy Strauss …đều phản động hết không nói làm
gì. Ngay cả với thế giới XHCN cũng vậy. Trung Quốc rơi vào cách mạng
văn hóa, còn Liên Xô bị coi là xét lại, là một thứ nấm độc cần phải từ
chối.
Những
năm đó, bao nhiêu sinh viên và thực tập sinh đang học các ngành KHXH ở
Liên xô và Đông Âu đều bị gọi về dù học còn dang dở.
Tôi
tuy chỉ ở bên văn chương nhưng mọi chuyện bên khoa học cũng được biết
ít nhiều, vì cả hai khu vực này đều trong phạm vi chi phối của ông Tố
Hữu. Tôi nhớ có một tư tưởng của Tố Hữu, do giới tuyên huấn lúc ấy cho
lan truyền, cho rằng về khoa học tự nhiên thì chúng ta có thể kém các
nước, nhưng còn về khoa học xã hội thì ta là nhất, các nước khác cắp
sách đến học chúng ta.
Về
sau này, những tư tưởng đó có thể được trình bày kín đáo hơn, nhưng
theo tôi thấy nó không bao giờ mất hẳn. Và nó biến hình thành những tư
tưởng tinh vi hơn, chẳng hạn về cái gọi là tinh thần dân tộc trong
nghiên cứu xã hội. Riêng nó đủ tạo nên sức sống dai dẳng của các loại
các bộ môn được gọi là khoa học hôm nay.
Mức độ suy đồi
Không phải trong giới không còn những người muốn làm khoa học xã hội thực sự.
Ở đây cũng những người được đào tạo đúng bài bản từ
nước ngoài về. Và ngay trong những người chỉ là dân nội địa có những
người do lương tri và học hỏi mà cảm thấy lẽ ra chúng ta phải có một
thứ khoa học khác.
Tuy vậy, trong thực tế, có hai khía cạnh phải tính tới.
Một là ngay
từ điểm xuất phát, giới đại học ở ta, nhất là bên KHXH, đã được hình
thành theo kiểu ba vạ. Không ít người trong họ ban đầu là những cán bộ
tuyên truyền chỉ giỏi về xách động, thiếu chuyên môn nhưng lại thừa ý
chí, xông vào đủ mọi lĩnh vực và nay hóa ra những nhân vật đầu đàn,
những pioneer (tạm dịch: người đặt nền móng) cho KHXH VN hiện đại.
Việc
bảo vệ con đường đã qua của KHXH hôm nay là lẽ sống của họ. Cố nhiên họ
thừa hiểu mọi cố gắng đưa ngành này vào quỹ đạo của KHXH thế giới đều
có nghĩa là phủ định công lao và vai trò của họ, đời nào họ cho phép.
Hai là mấy
chục năm nay, tình trạng ọp ẹp ngành này kéo dài. Trên cái mặt bằng
quá thấp của giáo dục nước ta, KHXH chính là khu vực trũng nhất. Học
sinh phổ thông giỏi đi học y khoa, học tin học, học kinh tế… chứ mấy ai
chịu theo bên văn bên sử. Khi vào ngành rồi, thì lại có sự sàng lọc tiếp
theo, theo phương châm “ hồng trước chuyên sau”.
Ở
các ngành khoa học tự nhiên, thì sự kém cỏi còn khó che giấu. Chứ ở
đây, cứ mạnh mồm là được. Không có gì lạ nếu bộ phận kém cỏi và hoạt đầu
trong KHXH, lại được coi là bộ phận đáng nâng đỡ và dần dần đóng vai
thao túng tình hình.
Những người ưu tú thì bị chèn ép, chỉ riêng việc chống lại chủ nghĩa bình quân cũng khiến họ tiêu mòn sức lực.
Quan
trọng không kém là vai trò của đãi ngộ. Trong khi các cán bộ có thiện
chí khoa học cô đơn, và thiếu đủ mọi điều kiện để làm việc, thì những kẻ
nịnh nọt, một lòng một dạ kiên trì thứ khoa học minh họa tha hồ
được khen thưởng, được cho đi học nước ngoài, được cấp những khoản kinh
phí lớn để “nghiên cứu”, những gì họ viết ra được đưa vào sách giáo khoa
chính thức giảng dạy cho hàng triệu sinh viên học sinh.
Các
nhà nghiên cứu trẻ có phải là thánh cả đâu ? Bao nhiêu thông minh vốn
có trong họ trước tiên được sử dụng để thích ứng với hoàn cảnh mà cũng
là để tìm cho mình một chỗ đứng. Nhu cầu tự do và khả năng học hỏi ở mỗi
người dần bị mài mòn, người trước kẻ sau họ đều rơi vào cái quỹ đạo đã
được vạch sẵn.
Xét
đại trà, bộ mặt của giới nghiên cứu đã hình thành đúng như sự nhào nặn
của những người trả lương họ. Để đỡ phiền phức, càng ngày , những người
trong cuộc càng tự mình thỏa mãn với công việc và trình độ của mình,
không ai có ý ân hận và lo lắng về sự xa cách giữa KHXH Việt Nam và KHXH
thế giới.
Không có gì là khó hiểu trong cái định hướng mà cả giới đã chọn. Thắc mắc mà làm chi khi bây giờ khi đại cục cũng đã hỏng, tôi chỉ một con chim non bé bỏng –vứt trong lồng con giữa một lồng to.(Tố
Hữu).Trong khi đó, nhìn đi nhìn lại hóa ra so với ngày hàn vi mình nay
cũng không đến nỗi nào. Phần lớn các nhân vật khôn ngoan trong giới đã
đạt tới cai đích mà họ ôm ấp. Giáo sư cũng có, tiến sĩ “ như lợn con”,
viện sĩ hàn lâm nếu muốn rồi anh cũng có thể có.
Khi những điều kiện vật chất được thỏa mãn thì những đòi hỏi về tinh thần dần dà rồi cũng tan biến.
Từ Huy đặt vấn đề trách nhiệm Chỉ
còn hy vọng khi những người làm nghiên cứu ở Việt Nam, với tư cách cá
nhân, vẫn giữ được cho mình quan điểm độc lập so với quan điểm chính
thống này. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ phải nhìn thấy trách
nhiệm của chính họ […]trong sự suy tàn của ngành KHXH&NV
Theo tôi hiểu, với giới nghiên cứu KHXH hiện nay nêu ra hai chữ trách nhiệm là thứ xa xỉ.
Trong
nhiều luận văn công bố gần đây, Từ Huy đã giảng giải cho chúng ta thấy
giới đại học phải có một cách hoạt động như thế nào, người làm khoa học
xã hội phải có trình độ và tư cách như thế nào.
Chẳng
hạn tác giả có nói đến yêu cầu của giới khoa học là đi tìm chân lý chứ
không phải đi tìm cái đúng và nhiều khi họ nghiên cứu mà họ không biết
rằng mình sai hay đúng.
Về
phần mình, tôi ngờ rằng những điều đó ngày càng khó nghe đối với giới
nghiên cứu hiện nay, vì chúng đánh vào lòng tự ái của họ, lương tâm của
họ, là điều mà chính họ muốn quên lãng và không muốn ai nhắc lại nữa.
Từ Huy có lẽ đã cảm thấy điều đó khi mở đầu bài viết bằng đoạn cảm thánVẫn
biết rằng những gì nói ra ở đây có thể chẳng ai nghe, có thể chẳng nhận
được sự hồi đáp nào, mà có khi lại tự gây nguy hiểm cho bản thân, chuốc
lấy sự thù ghét của đồng nghiệp. Nhưng đã cầm bút thì không làm khác
được.
Đây
tôi không nói rằng việc giới nghiên cứu im lặng là tốt, nhưng chúng ta
cần phải thông cảm với họ. Họ được đào tạo theo những cách khác và đặt
quyền lợi khoa học của mình ở những điểm khác. Nêu ra những yêu cầu bên
ngoài đối với họ, là làm phiền họ và cũng chỉ gây thất vọng vì sẽ chẳng
bao giờ mà yêu cầu đó được thỏa mãn.
Sống tiếp như thế nào đây
Chúng
ta thường chỉ lo lắng là có vẻ như KHXH ở ta hiện nay không có thành
tựu. Cái đáng lo hơn là con người. Khi con người đã hỏng thì làm ra cái
gì có giá trị nữa.
Một bạn theo dõi tình hình khoa học ở Nga kể với tôi câu chuyện sau:
Đúng
năm 1991, khi Liên xô sụp đổ thì một nhà khoa học trẻ bảo vệ thành công
một luận án xuất sắc về chủ nghĩa vô thần. Đó là một người hết sức
thông minh. Ông hiểu rằng cả tuổi trẻ của ông đã đi vào con đường sai
lầm. Cảm thấy không có lý do để sống nữa, ông nhẩy lầu tự tử.
Ở
ta không có những con người như thế. Trong trường hợp tốt nhất chúng ta
chỉ có những người như Trần Quốc Vượng đã mô tả, cái gì cũng có một
chút. Một chút phải đạo một chút chống đối làm dáng. Một chút khoa học,
một chút một chút xẩm chợ nói liều. Một chút cống hiến hết mình, một
chút nhặt nhạnh kiếm chác.
Vả chăng, cái mẫu như ông Vượng cũng đang ngày một hiếm.
Thế
tức là tình thế hoàn toàn tuyệt vọng hay sao? Khi tự đặt cho mình câu
hỏi này, tôi tìm tới câu trả lời nước đôi. Vâng, tuyệt vọng thật . Đáng
lẽ chúng ta phải có hàng trăm Bảo Ninh, hàng vài chục Nguyễn Huy Thiệp
thì văn chương chúng ta mới khởi sắc được, chứ chỉ có một hai người ấy,
mọi sự hy vọng đều là tự dối mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể chết
như ông tiến sĩ người Nga, chúng ta phải sống. Đối với các bạn trẻ, tôi
nghĩ nay là lúc phải phân thân, vừa biết sống như mọi người, vừa dành
một phần tối đa có thể để học hỏi và thầm lặng bắt tay vào, làm một cách
hết lòng, làm như làm cho chính mình những việc tử tế có đóng góp cho khoa học mà cũng là có đóng góp thực sự cho nhân dân đất nước .
May
mà chúng ta làm khoa học xã hội, công cụ làm việc nhiều khi chỉ cần ít
cuốn sách là đủ. Cũng chẳng cần chung quanh công nhận vội…Bởi cái đích
của ta rất xa…Trong việc này mỗi người có thể rất đơn độc, và thất bại
nữa…Và trước mắt là chịu thiệt, là không có cả danh lẫn lợi. Nhưng niềm
vui lớn nhất, niềm vui của cuộc truy tìm chân lý đang chờ. Nhờ thế, lòng
ta luôn luôn thanh thản.
Trong
cái cuộc sống khó khăn này, có một điều theo tôi nên nghĩ. Là không
phải chúng ta bi đát mà nhiều người khác trên trái đất này cũng bi đát,
các trí thức Nga , các trí thức Trung Quốc , và gần đây các trí thức
Afganistan, Iraq , Ai Cập… Mà nghĩ rộng ra nữa, đọc kỹ vào văn học
phương Tây thế kỷ XX, thì ở đâu chúng ta chẳng bắt gặp cái giọng đau
đớn.
Ở
một trang sổ tay cũ, tôi từng chép được một câu danh ngôn, đúng hơn là
một lời tự nhủ của một trí thức, nó từng ám ảnh tôi nhiều năm, nay mới
lục ra chép lại:
Thời
đại chúng ta cốt yếu là một thời đại bi thảm bởi thế chúng ta từ chối
coi nó là một cái gì bi thảm. Cuộc đại biến động đã xảy ra, chúng ta ở
giữa những đổ nát, chúng ta bắt đầu xây dựng những túp lều trú ngụ tạm
bợ và dấy lên chút hy vọng nhỏ bé mới. Đó là một công việc khá nhọc
nhằn. Nay là lúc không có con đường bằng phẳng nào dẫn tới tương lai.
Nhưng chúng ta sẽ đi vòng quanh hoặc bò qua những trở ngại. Chúng ta
phải sống thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp.
Câu này của D.H. Lawrence (1885 – 1930), tôi đọc được từ trong một cuốn sách của ông Nguyễn Hữu Hiệu, hình như là cuốn Con đường sáng tạo in ở Sài Gòn trước 1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét