Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT CỔ (1)

HÀ VĂN TẤN
Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình. Nói khác đi, văn hóa là sản phẩm hoạt động của con người trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên và xã hội diễn ra trong không gian, thời gian và hoàn cảnh nhất định.
Nếu như con người là sản phẩm đặc sắc nhất, cao nhất của tự nhiên, thì văn hóa cũng là cái sản phẩm tự nhiên đặc sắc được con người tác động lên, biến đổi và tạo ra những phương tiện nhằm phục vụ và thỏa mãn cuộc sống và sự phát triển của mình. Những hoạt động đó, những hành vi đó được lặp lại, được xử lý, uốn nắn, được đúc rút trở thành những kinh nghiệm, những thói quen, những nguyên tắc, những chuẩn mực hướng dẫn lại hoạt động của con người.

Như vậy thì, văn hóa như những chuẩn mực ứng xử của con người được thể hiện ra trong mọi sinh hoạt, mọi hành vi, mọi nếp nghĩ từ chốn ở, cách ăn, cách làm, lối sinh hoạt đến cách đối nhân xử thế.
Trên phạm vi thế giới, có một nền văn hóa chung cho toàn nhân loại. Tính chung đó được thể hiện ra ở mọi nơi, trong mọi nền văn hóa cụ thể. Và trong mỗi khu vực địa lý-lịch sử nhất định, ở đó nhiều dân tộc cùng chung sống, cùng có những hoàn cảnh và điều kiện sống tương tự nhau, thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và hòa nhập tạo ra một khu vực văn hóa riêng. Ví dụ như nền văn hóa Đông Nam Á cổ truyền của cư dân trồng lúa nước, sống trong hệ sinh thái phổ tạp và gió mùa nhiệt ẩm. Và mỗi cộng đồng người, mỗi dân tộc sông trong một phạm vi nhỏ hơn, trong một quốc gia, lại tạo ra một nền văn hóa riêng mang bản sắc dân tộc độc đáo riêng của mình.
Tính đa dạng của văn hóa xuất phát từ tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phức tạp, phong phú của xã hội, tính không đồng đều, không giống nhau của bản thân con người mang thể trạng và tâm thức khác nhau.
Vậy bản sắc văn hóa là những nét văn hóa riêng làm thành hệ giá trị được một dân tộc chấp nhận, được xem như phù hợp và thích hợp, được đem vào vận hành nhằm thỏa mãn nhu cầu sống và phát triển của dân tộc mình trong nền cảnh lịch sử tương ứng.
Trong bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng tính nhân loại, tính khu vực và tính tộc người, ở đó tính nhân loại và tính khu vực được đa dạng hóa, được biến dạng, cụ thể, được kết hợp với cái riêng dân tộc mà dân tộc đó sáng tạo ra trong những hoàn cảnh lịch sử riêng của nó. Tất cả những cái đó làm thành bản sắc văn hóa của dân tộc, chứ bản sắc dân tộc không phải chỉ là những cái riêng của dân tộc đó nghĩ ra và làm ra. Như vậy, có thể hình dung bản sắc dân tộc của văn hóa như một vòng tròn chính tâm đa sắc, hội kết và chiết xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hóa nhân loại.
Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị văn hóa mà mỗi dân tộc chấp nhận. Tất nhiên nói “giá trị” ở đây, ta không hề dùng khái niệm đó theo nghĩa giá trị học (axiologic), nghĩa là tiến bộ hay không tiến bộ, theo nhận thức chủ quan của chúng ta. Mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng gồm những giá trị phù hợp với nó, kể cả những giá trị trung tính (neutre).
Ví dụ ăn là một nhu cầu sinh học. Nhưng ăn bốc, ăn đũa hay ăn bằng thìa thì đó là văn hóa. Và chúng ta không thể coi cách ăn nào là tiến bộ hơn cách ăn nào. Đó là những giá trị trung tính. Cũng như thế, cái đói là động lực sinh học, nhưng khẩu vị để thỏa mãn cái đói chính là văn hóa.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tách rời tự nhiên và văn hóa. Người ta thường nói cái gì không phải tự nhiên thì là văn hóa. Nhưng có điều, văn hóa không thể tách rời với môi trường tự nhiên. Tất nhiên, văn hóa gắn liền với ứng xử, và ứng xử là cả thiên nhiên và xã hội. Và ứng xử thì phải có chuẩn mực của cộng đồng. Chính ở những chuẩn mực cộng đồng này, bản sắc văn hóa bộc lộ ra rõ ràng. Và sau cùng, chúng ta cần thấy rằng văn hóa cũng phụ thuộc vào lịch sử: lịch sử biến đổi và do đó, văn hóa cũng biến đổi theo, do nhưng điều kiện mà lịch sử đưa lại.
Như vậy, chúng ta cần chú ý đến ba điểm:
1- Văn hóa và môi trường tự nhiên:
Trong thư Triệu Đà gửi cho vua Hán có câu: “Âu Lạc  phía Tây, ở trần mà cũng xưng vương”. Chắc là câu đó không tránh khỏi có ý miệt thị. Nhưng ở trần ở nước Âu Lạc, và trước đó, ở thời đại các vua Hùng, thì là một đặc điểm gắn liền với văn hóa, với bản sắc văn hóa: ở trần đóng khố đối với nam và mặc váy đối với nữ. Đóng khố mặc váy thì ở nông thôn Việt Nam cho đến trước Cách mạng tháng Tám còn rất phổ biến. Chúng tôi nghĩ rằng điều đó phù hợp với điều kiện khí hậu. Đó là nói chuyện cái mặc. Cũng như vậy, trong cái ăn, bát canh có vị trí quan trọng trong bữa cơm Việt Nam. Chan canh là cách ăn đặc biệt Việt Nam. Lấy ví dụ như người Nhật, họ không bao giờ chan lẫn cơm với canh mặc dầu nước này cũng ăn cơm và ăn canh. Và trong các thứ rau làm canh, người Việt lại thích loại rau nhớt như rau mồng tơi, rau đay…Cũng lại do điều kiện tự nhiên.
Tất nhiên, cũng do điều kiện khí hậu, giữa các vùng có khác nhau. Miền Nam, như hiện nay, thích uống trà đá, còn miền Bắc, thì lại thích trà nóng. Nhưng nhìn chung, cần chú ý môi trường tự nhiên đối với văn hóa.
Môi trường tự nhiên, từ thời dựng nước đến nay, lại ít thay đổi. Do đó, nhiều yếu tố bản sắc văn hóa gắn liền với môi trường, có lẽ là ít thay đổi.
2- Văn hóa và môi trường xã hội:
Môi trường xã hội thì biến đổi có phần nhanh hơn môi trường tự nhiên. Thế nhưng ở Việt Nam, văn hóa nói chung là văn hóa xóm làng và văn hóa nông nghiệp. Cho đến nay, tình hình đó không có mấy thay đổi.
Cái mô hình làng, liên làng và trên đó là siêu làng, vẫn là cái mô hình đã hình thành từ ngày lập nước cho đến hôm nay.
Các chuẩn mực văn hóa vẫn được quy định bằng thói quen, phong tục, cấm kỵ đã hình thành từ nghìn xưa. Mà chuẩn mực là việc áp dụng các giá trị vào đời sống.
“Miếng giầu là đầu câu chuyện”, “Một miếng giữa làng bằng sàng trong bếp”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, v.v và v.v. là những ứng xử mà chúng tôi nghĩ rằng đó là những chuẩn mực khá bền vững. Và suy cho cùng, những chuẩn mực đó chắc đã nảy sinh từ thời dựng nước. Ví dụ: Mối quan hệ giữa họ và làng ở Việt Nam, không bao giờ công xã láng giềng hay công xã nông thôn trở nên thuần nhất, mà vẫn gắn liền với công xã thị tộc, nghĩa là vai trò của huyết tộc bao giờ cũng lớn. Chắc ai cũng biết rằng cho đến nay, ở nông thôn vẫn còn các “chi bộ họ ta”.
Nói như vậy là phải nói đến nguyên nhân lịch sử. Đáng lý ra, khi nhà nước đã xuất hiện, thì các tàn dư thị tộc, các cơ sở cộng đồng dần dần biến đi. Nhưng ở Việt Nam lại khác. Các cuộc xâm lược đã buộc các yếu tố cộng đồng phải cố kết lại. Và trong một lịch sử mà các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm xảy ra liên miên thì các yếu tố cộng đồng phải tồn tại lâu dài. Trước quyền lợi của dân tộc thì cá nhân phải quên đi và cộng đồng là trên hết.
Vì vậy, nhìn nhận về văn hóa, về bản sắc văn hóa, chúng ta không nên quên điều kiện lịch sử và xã hội.
3- Bản sắc văn hóa dân tộc cũng thay đổi:
Đi tìm bản sắc văn hóa, ta thường đi tìm những hằng số của văn hóa. Ta hãy nghe Trần Văn Khê nói: Khi người phụ nữ Việt Nam mặc áo dài, khác với kimônô của Nhật, áo sari của Ấn Độ, áo dài “xẻ từ đùi tới chân” như áo Thượng Hải, chúng ta cho rằng áo dài
tính dân tộc. Ai thấy áo dài cũng biết ngay là áo của dân tộc Việt Nam. Khi chúng ta ăn thịt kho, cá kho bằng nước dừa xiêm, có bỏ nước màu khác hẳn với thịt heo xào “chua ngọt” và cá chưng tương của người Trung Quốc, thì thịt kho, cá kho đã mang tính “dân tộc” Việt Nam. Nói chi đến cách gói “nem chua”, thì các dân tộc Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiền, Thái Lan nhất định không biết làm món ấy. “Nem thua” rất đậm màu dân tộc Việt Nam”.
Nhưng ta bỗng tự hỏi rằng cái áo dài Việt Nam kia có từ bao giờ? Cái áo dài đó sản sinh ra gần đây thôi, chứ đâu có phải từ đầu. Thế mới biết, trong các yếu tố bản sắc dân tộc, có những cái xuất hiện sau, có những cái hấp thụ từ bên ngoài nhưng cải biên đi, phù hợp với con người Việt Nam. Có người nói rằng văn hóa Việt Nam vốn là thuộc nền văn hóa Đông Nam Á, rồi sau đó do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Việt Nam chuyển dần sang văn hóa Đông Á.
Chúng ta cần phân tích rõ điều này. Lấy ví dụ trong âm nhạc. Có người cho rằng dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, chúng ta mới có thêm đàn đáy, đàn nguyệt… Nhưng cũng có người cho rằng đàn đáy của Trung Quốc (tam huyền cầm) và Mông cổ (sandfe) bịt bằng da trăn, thùng đàn shamisen của Nhật bịt bằng da mèo ở phía mặt và da chó ở lưng. Còn đàn đáy Việt Nam, tuy cũng có ba dây nhưng rất khác các loại đàn trên. Đàn nguyệt Việt Nam cũng không giống đàn nguyệt cầm (yuegin) Trung Quốc. Nguyệt cầm Trung Quốc có cần đàn ngắn, phím không cao, đàn có chữ chuyền, thiếu chữ nhân. Do đó đàn đáy, đàn nguyệt phải coi là có tính dân tộc. Và gần đây thôi, ta lại phải nói đến đàn ghi-ta phím lõm dùng cho hát cải lương.
Do đó không nên đối lập sự vay mượn và sự biến đổi sáng tạo. Tất cả cái đó, đều có thể làm cho bản sắc văn hóa dân tộc thêm giàu có.
Điều đáng chú ý là lúc nào thì yếu tố ngoại sinh vay mượn của người đã trở thành yếu tố nội sinh của dân tộc mình.
Bản sắc văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển đến nay, trong suốt 4.000 năm lịch sử, từ thời kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc. Nền văn hóa đó, mà những yếu tố làm thành bản sắc luôn được tuyển chọn, luôn được đổi mới, thêm giàu có, đây sức sống và phát triển vươn lên không ngừng.
Văn hóa Việt cổ, ở cái buổi sinh thành và tuổi ấu thơ, mang ý nghĩa là nền tảng, giá đỡ và bệ phóng cho sự cất cánh của dân tộc và văn hóa ở các thời kỳ lịch sử tiếp theo. Bởi vậy, tìm về cội nguồn và nhận ra cái cốt lõi đầu tiên của bản sắc văn hóa Việt Nam là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm kế thừa, bảo vệ, đổi mới và phát huy những tinh hoa, đẩy lùi, loại bỏ những cái lạc hậu, khiến văn hóa thực hiện được các chức năng làm nền và định hướng cho cách ứng xử (thể hiện ở tâm hồn đạo lý, lối sống, hành vi…) của mỗi cá nhân và của cộng đồng hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong quan hệ với mình, với người, với xã hội và với tự nhiên.
Nhưng thành tựu cơ bản nhất, di sản quý giá nhất mà người Đông Sơn để lại cho hậu thế là ở chỗ họ đã tạo lập được, đã định hình được những đường nét lớn của nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc mà ở đó cái thần của nó được hun đúc từ hệ thống những giá trị những bản tính, những phẩm chất, những tính cách. những truyền thống về:
- Đức tính kiên nhẫn, cần cù lao động, kiên định, kiên trì, nhẫn nại, chịu đựng gian khổ khi phải đối mặt với một thiên nhiên hà khắc: lũ lụt lắm, hạn hán nhiều, tàn phá công trình thủy lợi, mùa màng, cũng như chịu đựng đau khổ khi phải tạm sống dưới ách áp bức của kẻ thù.
- Mặt đối lập với kiên nhẫn là kiên quyết, là kiên cường, là thế vùng lên, đổi thay sự vật. Kiên cường khắc phục thiên nhiên bằng ra sức đắp đê, khơi mương, làm mới những cái bị phá hoại nhằm có được những vụ mùa bội thu. Kiên quyết chống lại kẻ thù, giành lại độc lập, tự do. Người xưa đã lấy hình tượng con rùa và con cóc để biểu trưng cho đức tính đó. (Cóc trên các trống đồng Đông Sơn, rùa trên khóa thắt lưng Làng Cả).
- Tinh thần tập thể, tính cộng đồng được gói lại trong chữ Công, và được mở ra ở hai vế: công cộng và công ích. Từ đó toát lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam đọng lại trong hai tiếng trách nhiệm. Đức tính này được tạo ra do nhu cầu khách quan.
Nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước đòi hỏi phải tuân thủ sít sao tính thời vụ: từ khâu làm đất đến khâu thu hoạch, không thể để chậm trễ ở khâu nào. Nông nghiệp lúa nước cũng đòi hỏi việc bảo đảm có nước đầy đủ, không thừa, không thiếu cho cây lúa sinh trưởng. Muốn vậy phải đắp đê phòng lụt, be bờ giữ nước, đào mương dẫn nước. Công việc này đòi hỏi sức lực của nhiều người, đòi hỏi sự hiệp lực của cả làng xã hay liên làng xã.
Cũng vậy, việc chống lại một đối phương lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần, lại thường xuyên đe dọa xâm lấn. Để chống lại có hiệu quả, ắt hẳn phải cần đến công sức của cả cộng đồng.
Trong bối cảnh sống như vậy thì cái cộng đồng bao giờ cũng vượt lên trên cái cá thể. Từ đó, cái nghĩa vụ, cái vị tha được nhấn mạnh, được đề cao trước cái vị kỷ. Cái ý niệm sống ở làng, một miếng giữa làng, trở thành chuẩn mực ứng xử của người Việt Nam chắc hẳn có cội rễ từ thời dựng nước đầu tiên đó.
- Lòng nhân ái, khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa là truyền thống quý báu của nhân dân ta. Tính nhân bản này, được nảy sinh từ tính ôn nhu của người làm nông nghiệp lúa nước, hẳn đã được hình thành từ thời Đông Sơn. Chính cái công việc làm ăn đầy vất vả và nhiều éo le này, cái thực tiễn “ba tháng trồng cây không bằng một ngày trông quả” này, khiến con người sống trong thấp thỏm lo âu, trước những tai họa như “nước lụt thì lút cả làng” không chỉ ập đến với riêng ai, đã khiến con người ý thức được phải đùm bọc lẫn nhau.
- Tính cách mềm dẻo, lối ứng xử linh hoạt, không câu nệ cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh sống của người Đông Sơn. Một tấc đất có giá trị như một tấc vàng này vì con người phải đổ nhiều mồ hôi triệt để tận dụng nó dể trồng cấy mọi thứ có thể trồng, cần trồng đỗ bên ngô, cần đưa cây lúa lên cao, xuống trũng, cải biến giống làm nảy sinh nhiều giống lúa mới thích nghi với sinh thái. Về mặt xã hội, sống bên cạnh một nước lớn, có nền văn minh rực rỡ, người Việt cổ muốn tồn tại, giữ được cái TA, dĩ nhiên là phải có thái độ ứng xử linh hoạt, không thể cứng khi cần mềm, không thể bài khi cần nhập. Chấp nhận nhân nhượng để tránh tổn thất vô ích. Có bản lĩnh, tiếp thu có chọn lọc để làm phong phú mình. Từ thực tiễn cuộc sống đó đã đẻ ra nghệ thuật ứng xử như nước ấy. Và con rắn – biểu tượng của nước, cũng được người Đông Sơn lấy làm biểu tượng cho tính cách này. Người ta đã tạc tượng những đôi rắn quấn nhau, mồm đỡ lấy chân voi hoặc chân báo làm thành chuôi những con dao găm được các chiến binh Đông Sơn mang bên người như một vũ khí tự vệ, cũng như một thứ bùa hộ mệnh.
- Triết lý dung hợp được biểu hiện trong chữ Hòa cũng góp tạo bản sắc vàn hóa Việt Nam. Khi trở thành dân tộc người Việt cổ vốn là một cộng đồng nhỏ bé bên cạnh một nước lớn mạnh, nhưng nhờ lòng yêu quê hương thiết tha, mảnh đất đã phải đổ biết bao mồ hôi sôi biết bao nhiêu nước mắt mới có được, đã khiến người Việt Nam sớm có tinh thần độc lập, ý chí tự cường, tự khẳng định cái TA, tự tạo cho mình một chỗ đứng dưới bầu trời. Xuất phát từ ý thức đó, trong bối cảnh lịch sử đó, người Việt cổ đã tìm mọi cách để tạo sức mạnh cho mình, đã thâu tóm mọi cái hay của người cũng như đã đồng tâm hiệp lực trong lao động, đoàn kết trong đấu tranh chống xâm lược. Tư duy dung hòa chi phối toàn bộ văn hóa truyền thống Việt Nam (Hà Văn Tấn). Vốn có bản lĩnh và ý chí tạo lập cho mình một nền văn hóa có sức sống mạnh mẽ, lại được tư tưởng HÒA dẫn dắt, người Viêt Nam đã tạo được một biệt tài riêng, một tính cách riêng độc đáo là biết biến cái của người thành của mình (Phan Ngọc).
- Dũng cảm cũng là một phẩm chất, một tư chất Việt. Phẩm chất này cũng được nảy sinh trong những bối cảnh tự nhiên và xã hội được phân tích ở trên. Thời đại Đông Sơn, là thời đại mà nhiều cộng đồng người trong khu vực chuyển mình thành giai cấp, thành quốc gia – dân tộc. Mà quốc gia không phải là cộng đồng văn hóa tự nhiên, mà là một cộng đồng quyền lực… chỗ dựa chủ yếu của quyền lực là sức mạnh quân sự. “Chiến tranh là biện pháp thường dùng để mở rộng hay bảo vệ biên giới vì lợi ích quốc gia” (Nguyễn Tấn Đắc). Sức mạnh quân sự được thể hiện ở cả hai mặt vật chất và tinh thần, vũ khí, kỹ thuật quân sự và lòng dũng cảm, mưu lược. Ở người Đông Sơn cả hai mặt của sức mạnh đó đều được thể hiện rất rõ và cái nọ nói lên cái kia
Tóm lại, đi vào lớp văn hóa đầu tiên – lớp văn hóa thuộc văn minh sông Hồng, chúng ta thấy người Việt cổ thời Đông Sơn đã tạo được một phổ sắc mà nhiều sắc màu trong đó góp tạo thành bản sắc của văn hóa Việt sau này.
Và khảo cổ học chứng tỏ được khả năng “…góp phần xác định tính chất và truyền thống của nhân dân Việt Nam, bản lĩnh và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Nó chứng tỏ, trong lĩnh vực của mình, những đức tính cô truyền của nhân dân Việt Nam là cần cù, dũng cảm, sáng tạo, có sức sống mãnh liệt, có tinh thần tập thể trong lao động và đoàn kết trong chiến đấu chống ngoại xâm v.v.” (Trường Chinh). Những tính cách, phẩm chất, truyền thống và đức tính cổ truyền đó chính là những sắc màu, là bản sắc của văn hóa Việt cổ, mà chúng ta đang ra sức nghiên cứu. Đó là những mặt tốt cần nhấn mạnh, cần đề cao, cần phát huy. Song nói như vậy không có nghĩa là trong những hằng số văn hóa không có những mặt hạn chế, mặt không tốt. Bởi lẽ sự vật đều có hai mặt đối lập luôn chuyển hóa lẫn nhau và mọi cái tồn tại đều có giới hạn của nó, quá đi đều có khả năng không còn là nó nữa. Vấn đề phụ thuộc vào cách nhìn nhận (biện chứng hay máy móc) và vào khả năng điều tiết của con người (nắm được và làm theo quy luật hay chủ quan duy ý chí). Và khi nói đến một phẩm chất, một tính cách hay một truyền thống, nó dễ là cái này, dễ là cái kia, có nghĩa là chúng ta mới chỉ nói đến khả năng. Và mỗi khi mới chỉ là khả năng (dù ít dù nhiều) thì đâu được coi là cái tất yếu. Khi xác định một loại hành vi nào đó là phẩm chất hay là tính cách của một dân tộc có nghĩa là chúng ta phải định được tính trội của hành vi đó và sự tồn tại của nó phải ở bộ phận đa số của dân tộc đó.
Đức tính kiên nhẫn cũng vậy, tự nó không thể đẻ ra nhu nhược, an phận, cam chịu, cùng lắm chỉ là nhẫn nhục để chờ thời cơ. Trong một con người hay một bộ phận của cộng đồng có thể có đức tính yếu hèn này, song người Việt Nam nói chung là một dân tộc kiên cường, bất khuất. Nếu khác đi hẳn dân tộc đó đã bị đồng hóa, diệt vong.
Lễ hội cúng giỗ là một hành vi đẹp về tưởng nhớ tổ tiên, những người anh hùng có công với nước. Song cúng bái tràn lan, sùng bái mọi thứ đều cho là thiêng, là thần bí… lại là biểu hiện của mê tín dị đoan, một hoạt động mê hoặc làm tâm thức con người u tối, cần bài trừ.
Cũng vậy, tính dung hòa là giá trị căn bản của văn hóa Việt Nam, nó giúp làm giàu và mạnh cho nền văn hóa và cho dân tộc. Bản tính này đôi khi hoặc dễ (song không nhất thiết) dẫn tới thỏa hiệp, ba phải. Đều đó nhắc nhở con người cần phải cẩn thận, cảnh giác, đề phòng, phải biết điều tiết đúng mức.
Tuy nhiên, có và cần chỉ ra những mặt yếu do hoàn cảnh và điều kiện khách quan, hạn chế của lịch sử đem lại và để lại. Ví như tác phong sống lề mề, chậm chạp, không tiếc thời gian “tháng Giêng là tháng ăn chơi’’ còn gặp khá phổ biến hiện nay có nguyên nhân
sinh thành trong môi trường tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của một xã hội trồng lúa nhiệt đới: cảnh thanh bình của đồng quê, những chu kỳ nghỉ của sản xuât, những dịp nông nhàn, mà kinh tế phụ lại ít phát triển và phương thức tiến hành làm ra sản phẩm cũng không đòi hỏi khẩn trương, chuẩn xác về thời gian.
Nền kinh tế tự cấp tự túc tồn tại lâu dài, tự nó mang tính khép kín tương đối khiến lưu thông, thương mại và kinh tế thị trường hàng hóa nói chung kém phát triển.
“Phép vua thua lệ làng”, là chuẩn mực ứng xử của nền dân chủ xóm làng, một thời đã giữ được an bình cho người dân. Hẳn không mấy thích hợp với đổi mới ngày nay. Cần pháp luật: một sự quy định tối thiểu của phẩm chất mà mọi người nhất thiết phải tuân theo (Cao Xuân Phổ).
Sự phân công xã hội giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa lao động cơ bắp và lao động trí óc diễn ra chậm chạp ở nước ta rõ ràng đã dẫn tới sự phát triển yếu về khoa học tự nhiên, sự hình thành chậm chạp tầng lớp trí thức chuyên sản xuất sản phẩm tinh thần, văn hóa làng nói chung mang màu sắc dân gian tuy khỏe khoắn mộc mạc, đáng yêu nhưng thiếu tinh tế sâu sắc, thông tuệ cao. Nhưng biết làm sao được, vì như Mác đã nói, con người sống trong những điều kiện mà nó gặp chứ không sống trong điều kiện mà nó chọn. Lịch sử là như vậy. Nhưng giờ đây, nếu hiểu sâu sắc cơ bản bản sắc văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể tìm ra các biện pháp để bảo vệ và phát huy các tinh hoa và đẩy lùi các tao phách của văn hóa truyền thống.
* Nguồn: Đến với LỊCH SỬ – VĂN HÓA VIỆT NAM, nhà xuất bản Hội nhà văn, Tác giả: HÀ VĂN TẤN.
(1) Đã in trong Vãn hóa-phát triển và bản sắc, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia xuất bản, Hà Nội, 1995.
About these ads

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét