Hôm
trước có bạn làm kinh doanh hỏi: "Đâu là bản sắc văn hoá Việt Nam?".
Mình suy nghĩ hơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm
bản chất của câu hỏi này. Hôm nay thấy tạm ổn, nên viết bài để trả lời.
Một bài trả lời đáng giá với một chai XO, như lời hứa của bạn ấy. Là vì
kinh doanh mà không nắm rõ bản chất văn hoá của một dân tộc, lại đem
chuông đi đánh xứ người, khác nào đánh vào khoảng không vô tận. Nên văn hoá không chỉ quyết định sự phát triển, mà văn hoá còn rất quan trọng trong tất cả các mặt của cuộc sống hiện đại.
Đứng về mặt học thuật, văn hoá
thế giới chia làm hai loại hình văn hoá du mục và nông nghiệp dựa trên
cơ sở phân loại duy lý hay duy tình trong cách tư duy và hành động của
cộng đồng dân. Cũng trên cơ sở phân loại ấy, người ta thấy rằng không có
một nền văn hoá nào là đồng nhất duy tình hay duy lý. Mà đã có sự pha
trộn văn hoá trong quá trình giao lưu văn hoá của các nền văn minh khác
nhau thông qua quá trình di dân, chiếm cứ của các dân tộc khác nhau trên
thế giới. Cho nên để nhìn ra bản sắc văn hoá của một dân tộc là một
điều khó. Dù khó, nhưng nếu dựa trên duy vật luận: "Từ thực tiển khách
quan đi vào tư duy trừu tượng. Rồi từ tư duy trừu tượng đem áp dụng vào
thực tiển khách quan. Đó là con đường nhận thức chân lý, chân lý khách
quan". Chúng ta có thể nhìn thấy được đâu là bản sác văn hoá Việt.
Trên khái niệm văn hoá là thói
ăn, nết ở, thuần phong mỹ tục được hình thành và phát triển định hình
nên tư duy và hành động của một cộng đồng dân sống trong một vùng địa lý
dưới những hình thái xã hội khác nhau. Có thể nhận ra hai loại bản sắc
văn hoá Việt rõ ràng, thứ nhất là bản sắc đặc thù của văn hoá Việt hình
thành do quá trình lịch sử. Thứ hai là, bản văn văn hoá Việt do ảnh
hưởng của sự giao thoa văn hoá thông qua lịch sử dân tộc Việt. Chúng ta
thử đi vào từng phần của bản sắc văn hoá Việt.
Ở phần thứ nhất, nét đặc thù đầu
tiên của văn hoá Việt là chiến tranh dựng và giữ nước. Hơn một nửa thời
gian lịch sử dân tộc Việt là một lịch sử chiến tranh, ngày nay ai cũng
rõ. Chiến tranh của người Việt có 2 đặc thù: giữ nước và mở cõi. Từ đó,
cách tư duy và hành động của người Việt trông bề ngoài là vẻ hiền lành,
chất phát, có nụ cười luôn trên môi đi tiếp xúc. Nhưng trong bản chất là
một sự bùng nổ những lề thói có bản chất chiến tranh giữ và cơi nới.
Ngày này, từ trong khẩu hiệu của tấm băng rôn trong các lễ hội cũng có
không khí chiến tranh, ví dụ như: "Sống, chiến đấu, lao động và học tập
theo gương Bác Hồ vĩ đại". Học cái gì tốt đẹp hơn mà lại phải học chiến
đấu? Dĩ nhiên chữ chiến đâu ở đây, không phải ý nói là chiến tranh, mà ý
muốn nói sự phấn đấu. Nhưng thay vì sự phấn đấu thì văn hoá bản sắc của
chiến tranh làm cho người ta hình tượng hoá sự phấn đấu lên thành từ
chiến đấu.
Chúng ta dễ dàng bắt gặp rất
nhiều ví dụ cụ thể về bản sắc văn hoá chiến tranh này của dân Việt trong
đời sống hằng ngày. Như lái xe ra đường không theo qui định, mà mạnh ai
nấy lấn đường làm ách tắc giao thông. Như nhà đã có lề, đường đã có lề,
nhưng buôn bán luôn cơi nới ra khỏi lề, xây nhà vẫn thêm hàng rào hay
một chút diện tích để lấn lề, v.v...
Đặc biệt, bản chất của chiến
tranh mở cõi là thuộc về nền văn hoá du mục, nhưng nó lại được đặt trong
một cộng đồng có số đông sống theo văn hoá nông nghiệp. Nên nó có những
mâu thuẩn nội tại xung đột trong cách ứng xử văn hoá sống có tính triệt
tiêu hơn là thúc đẩy để phát triển đi lên. Vì duy tình không giải quyết
thấu đáo vấn đề, mà chỉ theo cảm tính. Trong khi duy lý thì triệt để và
sắt máu. Chính vì thế mới có câu chuyện 3 người Việt cùng làm việc thua
3 người Nhật. Và vì thế mới có câu chuyện đám đông vô thức của người
Việt rất dễ định hướng đi theo một chiều tư tưởng, dù tư tưởng ấy là cực
đoan và phi lý.
Nếu các nhà kinh doanh nắm bắt
được bản sắc văn hoá này trong tâm hồn người Việt, họ rất dễ dàng giao
thương và chiếm thế thượng phong trong công việc, dù mưu đồ của họ là
không trong sáng.
Vấn đề thứ hai trong bản sắc đặc
thù văn hoá Việt là, thờ cúng tổ tiên. Có lẽ không ở nơi đâu trong văn
hoá nhân loại việc thờ cúng tổ tiên được nâng lên thành một đạo sống làm
người như dân tộc Việt. Đến một gia đình bất kỳ, nếu khéo léo, đối tác
xin phép thắp cây nhang lên bàn thờ tổ tiên là đánh đúng vào cái văn hoá
duy tình trong giao tiếp. Qua nhiều thời đại, các chính khách cũng tận
dụng nét đặc thù văn hoá này để định hướng lòng dân. Câu chuyện con rùa
hồ Gươm, hay lễ hội đền Trần, v.v... cũng là một biểu hiện cụ thể cho
nét văn hoá đặc thù này.
Vấn đề thứ ba của bản sắc đặc
thù văn hoá Việt là, văn hoá ẩm thực. Vì quá trình lịch sử mở cõi, lấy
ẩm thực làm vị thuốc để chống chọi với bệnh tật ở chốn rừng thiêng nước
độc. Nên ẩm thực Việt rất khoa học
về mặt dinh dưỡng học lâm sàng: "Ăn là thuốc, ăn đúng là trị bệnh, ăn
sai là rước bệnh vào mình". Hãy nhìn cách ăn uống của bác nông dân rất
khoa học: sáng sớm trước khi ra đồng ăn thật no, nhưđổ xăng cho xe chuẩn
bị đi làm, ăn trưa nhiều để làm việc tiếp, ăn tối vừa phải cho một đêm
nghỉ ngơi. Trong các mốn ăn Việt cũng nhiều tinh bột, rau xanh và chất
đạm, nhưng mỡ thì vừa phải giống như một tháp dinh dưỡng trong y học.
Ngoài ra, rau xanh Việt không thiếu các vị thuốc như: giá cường dương,
rau răm hãm dương, v.v... Các món ăn cũng phối hợp rất khoa học triết lý
phương Đông: ăn hột vịt lộn phải ăn với rau răm và muối tiêu. Để liệt
kê hết tất cả khoa học ẩm thực Việt thì rất nhiều.
Ở phần còn lại, những bản sắc
văn hoá khác, không là đặc thù của người Việt mà là, do sự giao lưu văn
hoá mà thành. Trong giao lưu văn hoá ấy có sự giao thoa, sự sao chép
nguyên bản rất đa dạng. Ví như, nho giáo với tam cương, ngũ luân một
thời gian dài nghìn năm sao y bản chính. Phật giáo là giao thoa văn hoá
từ nguyên gốc Ấn độ và nho giáo của Trung Hoa mà thành. Nên phật giáo
Việt Nam đỉnh cao được xem là thiền tông, nhưng nhuốm màu mật tông trong
thực hành trong cuộc sống.
Tất cả những sự giao thoa và sao
y ấy đều có cùng mục đích là phục vụ cho lịch sử hình thành và phát
triển địa lý, giống nòi của dân tộc Việt từ Thuỷ Chân Lạp để có bờ cõi
như ngày hôm nay. Nó giúp cho tránh được sự đồng hoá của người Trung Hoa
phương Bắc mà tạo ra sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt, không bị mất
đi, mà ngày càng phát triển về phương Nam.
Trong tất cả những ưu điểm từ
giao lưu văn hoá ấy, có một ưu điểm nổi bật của dân Việt là rất biết
sống hợp thời khi lịch sử đòi hỏi. Sự thức thời ấy thể hiện qua 2 lần
thay đổi chữ viết để thoát Á: lần đầu là thời nhà Tây Sơn, nhờ có La Sơn
Phu Tử Nguyễn Thiếp kế thừa và phát triển chữ Nôm thay thế cho chữ Hán.
Và thời thuộc Pháp có các nhà văn hoá Tự Lực Văn Đoàn đã tiếp sức các
vị Linh mục làm ra chữ quốc ngữ ngày nay theo mẫu tự La Tinh cho một
ngôn ngữ đơn âm tiết. Một nét văn hoá hiếm thấy ở Chấu Á.
Trong những nhược điểm của giao
lưu văn hoá để lại cho dân Việt, thì nhược điểm lớn nhất là sức đấu
tranh nội tại của văn hoá du mục duy lý không thắng được văn hoá nông
nghiệp duy tình. Nên văn hoá sống dân Việt làm lùn đi dân trí khi đứng
trước một sự vật hiện tượng, không được nhìn duy lý triệt để mà, mà được
nhìn bằng tư duy duy tình cảm tính nửa vời. Cái nửa vời ấy thể hiện từ tư duy đến hành động thông qua hình thái xã hội qua bao đời.
Để có được một dân tộc và đất
nước hùng cường, không gì khác hơn người Việt cần hiểu biết văn hoá đặc
thù của mình ở đâu, và kết quả của giao lưu văn hoá ở đâu? Đâu là tinh
hoa của 2 miền văn hoá và biết sửa mình. Nếu không lịch sử sẽ lập lại
những mảng tối cho đất nước và dân tộc lắm khổ nhục này.
Nguồn: http://bshohai.blogspot.gr/2011/04/au-la-ban-sac-van-hoa-viet.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét