Đỗ Kiên Cường
09:05' AM - Thứ tư, 05/02/2014
“Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác” (Định luật Blackmore thứ nhất).
Bài “Đất thiêng một giải nghiệm” trên Văn nghệ số 32, ngày 11-8-2007, khá điển hình cho một trào lưu mới tại nước ta hiện nay. Đó là sự lên ngôi của “khoa học tâm linh” hay các hoạt động mang tính tâm linh khác, tuy khái niệm tâm linh chưa bao giờ được làm rõ hay đạt sự đồng thuận. Đây là vấn đề quan trọng mà nếu không giải quyết, có thể gây nhiều hiểu lầm. Có ai ngờ thời thế lại đổi thay đến mức, người viết từng bị nhà thơ T.T.L. qui kết là hồng vệ binh và phản động chỉ vì không tin tâm linh có thật!
Tâm linh là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 1995, tâm linh là “1. Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xẩy ra với mình, theo quan niệm duy tâm. 2. (ít dùng) Tâm hồn, tinh thần”. Nếu đề nghị dịch thuật ngữ ra tiếng nước ngoài, có lẽ người biên soạn sẽ lúng túng.
Liên quan với tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là spiritualism(duy linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về một số hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết. Do nhiều tương đồng, nên chúng thường được đánh đồng với nhau. Tâm linh luận giả định có thể liên lạc với người chết qua đối tượng trung gian là giới đồng cốt - những người được xem là có khả năng nói chuyện với người chết.
Cần lưu ý rằng, linh hồn bất tử là ước nguyện rất tự nhiên của con người, vì đó là cách duy nhất để chúng ta chống chọi với thời gian và chiến thắng nỗi sợ hãi trước cái chết. Trong mọi nền văn hoá, đều tồn tại ước nguyện đó dưới nhiều hình thức, nhất là khi người xưa chưa hiểu biết đầy đủ về bản chất sự sống. Ngày nay, khi Miller (1953) tạo được axít amin nhờ tia lửa điện phóng qua ống nghiệm mô phỏng khí quyển Trái đất xưa, và khi nhiều phòng thí nghiệm đã gần tạo được tế bào nhân tạo, khoa học đã phát hiện bản chất tự nhiên của sự sống và khẳng định linh hồn không có thật. Là chức năng của bộ não, nên khi ta chết, tư duy, nhận thức và tình cảm chấm dứt, giống như hình ảnh, âm thanh trong tivi mất ngay khi ta ngắt điện. Nói cách khác, về mặt khoa học, linh hồn là quan điểm sai lầm.
Như vậy cần phân biệt ranh giới giữa các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo với các hoạt động khoa học. Thờ cúng và cầu xin người đã khuất phù hộ tại gia đình, đền chùa hay các cơ sở tôn giáo là các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo cần được giữ gìn như một nét văn hoá đáng quí. Hoạt động này được pháp luật bảo vệ. Còn tổ chức nghiên cứu xem linh hồn có thật hay không lại là việc làm lạc hậu cả về thế giới quan và phương pháp luận. Về mặt thế giới quan, những hoạt động đó kéo lùi nhận thức của chúng ta ít nhất hai thế kỉ (Khi Wohler tổng hợp được urea năm 1828, quan niệm linh hồn đã bị bác bỏ về mặt sinh học). Về mặt phương pháp, các nghiên cứu về cầu hồn hay gọi vong tại nước ta mắc lỗi nghiêm trọng trong thiết kế, đánh giá và bàn luận kết quả. Kết quả là một trung tâm nghiên cứu với nhiều nhà khoa học có tiếng đã kết luận cô đồng Phương tại Thanh Hoá thực sự có khả năng gọi hồn người chết. Trong khi đó, với sự nghi ngờ đúng đắn (xin lưu ý, tín ngưỡng hay tôn giáo dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ) và “thiết kế thực nghiệm” đơn giản, một phóng viên báo Công an TPHCM đã phát hiện sự thật khi cô đồng nổi danh này mắc bẫy nói chuyện với “vong” không có thật.
Các hiện tượng dị thường:
Như đã trình bày, vì quan niệm linh hồn đã bị xem là lạc hậu, nên giới nghiên cứu nước ngoài tỏ ra ưa thích thuật ngữ psychic, cũng được hiểu là tâm linh (theo nghĩa thứ nhất trong Từ điển tiếng Việt). Nó bao gồm ba phạm trù: ngoại cảm, tức khả năng nhận biết phi ngũ quan (gồm thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri); tác động của tinh thần lên vật chất (chẳng hạn “nhìn cong thìa”); và các hiện tượng liên quan với người chết. Người có một hay nhiều khả năng như trên được gọi là nhà ngoại cảm hay tâm linh. Thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, giới ngoại cảm nước ta xuất hiện như nấm sau mưa. Tự cho là có nhiều khả năng khác nhau, nhưng để đáp ứng nhu cầu tìm hài cốt liệt sĩ tăng rất cao sau hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, nhiều nhà ngoại cảm tuyên bố có khả năng tìm mộ, chủ yếu do “nói chuyện với người chết”.
Cần nhấn mạnh rằng, sau hơn một thế kỉ nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra tám lí do nghi ngờ ngoại cảm và tâm linh như sau:
1) Sự tiến bộ là tiêu chí bắt buộc của một khoa học tốt.Ngành cận tâm lý (nghiên cứu ngoại cảm và tâm linh) không đạt được một tiến bộ đáng kể nào, kể từ khi Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trên thế giới được thành lập tại Anh năm 1882.
2) Ngoại cảm được định nghĩa khác thường, không theo nghĩa nó là cái gì, mà theo nghĩa không là cái gì, nên rất khó giới hạn phạm vi nghiên cứu.
3) Bằng chứng của tâm linh thường không đáng tin, vì chỉ dựa trên lời kể của những người thiếu kiến thức chuyên môn.
4) Nghiên cứu về tâm linh thường mắc lỗi giản lược trong nhận thức và phương pháp.
5) Tâm linh không liên quan với bất cứ lý thuyết khoa học đã được khẳng định nào.
6) Nghiên cứu tâm linh có tính lặp lại kém.
7) Ngụy tạo và lừa gạt gắn bó chặt chẽ với tâm linh trong suốt tiến trình lịch sử.
8) Nhiều hiện tượng tâm linh có thể giải thích theo cách thông thường, mà hiện tượng ma nhập là điển hình (đó là hiện tượng đa nhân cách trong lĩnh vực tâm thần học).
Xin nhấn mạnh hai lí do thứ 3 và 4. Cho đến nay, chưa một ai đưa ra được một bằng chứng thuyết phục về tâm linh. Thế nào là một bằng chứng đáng tin cậy? Đó là bằng chứng thu được trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt nhằm loại bỏ các kênh cảm giác (vì ngoại cảm là khả năng nhận biết phi ngũ quan), sự lừa gạt hay nguỵ tạo. Nghiên cứu tại nước ta không thoả mãn các tiêu chí này, vì thế các kết luận đều không đáng tin. Hiện quĩ James Randi (nhà ảo thuật chứng tỏ khả năng “nhìn cong thìa” của Iuri Geller chỉ là ảo thuật) treo giải một triệu đô la Mĩ cho bất cứ ai thực hiện được khả năng ngoại cảm trong một thí nghiệm có kiểm soát. Các tổ chức nghiên cứu tại Pháp, Úc, Canada… cũng treo giải 200.000 euro mỗi nước. Và trên hết là giải thưởng 50 triệu đô la cho người chỉ ra vị trí của trùm khủng bố Bin Laden. Cần lưu ý, tất cả các nhà ngoại cảm từng thử nghiệm đều đã thất bại.
Ngược với sự nghi ngờ của giới chuyên môn, sự quan tâm của quần chúng đối với ngoại cảm và tâm linh không hề suy giảm vì bất cứ lí do nào. Đó là căn nguyên khiến nữ tiến sĩ tâm lí Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất. Đã từng xuất hồn và sau mấy chục năm nghiên cứu, bà nhận thấy “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Nói cách khác, vì muốn tin nên chúng ta có xu hướng bác bỏ mù quáng mọi chứng cớ chống lại niềm tin đó!
Chính vì vậy, Uỷ ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP được thành lập tại Mĩ năm 1976 nhằm ngăn chặn “cơn triều dâng của nạn mê tín và sự thừa nhận không phê phán các hiện tượng dị thường” và “khám phá các tuyên bố (về dị thường) và xuất bản các báo cáo khoa học về tính hiện thực của chúng”. Nhiều nhà khoa học lừng danh tham gia sáng lập CSICOP, như nhà vật lý Kapitxa (Nobel vật lý), nhà vật lý và thần kinh học Crick (Nobel sinh lý và y học), nhà tâm lý Skinner (cha đẻ thuyết hành vi), nhà thiên văn Sagan (cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh ngoài trái đất SETI), nhà sinh học tiến hoá Gould (cha đẻ thuyết Darwin hiện đại hoá), nhà ảo thuật Randi (khám phá nhiều màn ảo thuật đội lốt tâm linh), nhà sinh học Dawkins (bác bỏ quan niệm về nguyên lý sáng tạo tối cao của một số nhà khoa học hàng đầu)… Với đội ngũ nhân lực hùng hậu, với tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ xuất bản hàng quí, với hàng loại khảo cứu chuẩn mực về mặt phương pháp, CSICOP là thách thức chưa thể vượt qua đối với giới ngoại cảm và tâm linh trên toàn thế giới. Các tổ chức tương tự cũng xuất hiện tại Nga, Ucraina, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha, Ý, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil, Achentina, Hồng Kong, Đài Loan và nhiều quốc gia khác. Bạn đọc quan tâm tới các hoạt động của CSICOP có thể vào trang http://www.csicop.com/ để tìm hiểu thêm.
Tại sao giới bói toán hay đồng cốt dường như chính xác?
Nếu ngoại cảm và tâm linh không đáng tin cậy, tại sao một cô đồng giỏi có thể biết một số thông tin về người chết?
Nhiều người cho rằng đó là bằng chứng cho thấy linh hồn có thật và giới đồng cốt quả thật có khả năng nói chuyện với người chết. Tuy nhiên sau khám phá của Ray Hyman (cũng là sáng lập viên của CSICOP), sự thật về giới bói toán và đồng cốt đã được khám phá. Trong bài báo “Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào” trên Người yêu cầu nghi ngờ, tập 1, số 2, năm 1977, Hyman đã phát hiện kỹ thuật đọc nguội (cold reading). Đó là kỹ thuật lấy tin từ chính thân chủ bằng nhiều phương cách như nói lấp lửng nước đôi, đọc ngôn ngữ cơ thể… (thày bói hay cô đồng thường nói tràng giang đại hải, khi gặp thông tin khớp, ta thường nhướn mày, chớp mắt, rung cơ, thở nhanh… nên cô đồng nắm được. Giới chuyên môn gọi là hiệu ứng Hans thông minh, khi ngựa Hans tại Berlin đầu thế kỉ 20 “biết làm toán” do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện). Chính vì vậy trong cuốn Sự thật đầy đủ về đọc nguội, Rowland viết: “Trong một buổi gọi hồn thành công, cô đồng có thể nói hầu hết thời gian, nhưng chính người hầu đồng mới là người cung cấp ngữ nghĩa và ý nghĩa của những ngôn từ đó“. Ở đây câu ngạn ngữ Tây Ban Nha tỏ ra thích hợp “Người nói nhiều đôi khi cũng đúng”!
Có thể kể thêm hai kỹ thuật đơn giản là đọc nóng (hot reading) và đọc ấm (warm reading). Đọc nóng là cách lấy tin trước khi bói hay gọi hồn. Ta cứ phải chầu chực mãi mới được bói hay hầu đồng là vì vậy. Còn đọc ấm là việc áp dụng các nguyên lý tâm lý thông thường cho thân nhân người đã khuất. Chẳng hạn giới đồng cốt Mĩ thường nói người chết cảm thấy đau đầu hay đau tim. Thông báo này có xác suất đúng cao vì đột quị não và nhồi máu cơ tim là những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mĩ. Với một cô đồng giỏi cả ba kỹ thuật, người nghe không tin mới là chuyện lạ!
Vậy có thể kiểm chứng độ xác thực của khả năng “ngoại cảm tìm mộ“ hay không? Cách giải quyết thực ra rất dễ dàng: hoặc xét nghiệm ADN trên hài cốt tìm được, hoặc thực nghiệm với các trường hợp thật giả lẫn lộn. Người viết bài này tin rằng, nếu tổ chức tốt các thử nghiệm có kiểm soát, không một nhà ngoại cảm nào dám chấp nhận thách thức. Vấn đề chỉ là chúng ta có muốn kiểm chứng hay không mà thôi.
Cần bài trừ nạn mê tín mới:
Có lẽ ít người phản đối việc tách biệt hành vi mê tín khỏi các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên đâu là ranh giới giữa mê tín và tín ngưỡng lại là vấn đề rất khó đạt được sự đồng thuận. Đó là vấn đề lớn của toàn nhân loại chứ không riêng của nước ta. Chẳng hạn tại Anh, nhà khoa học đoạt giải Nobel Josephson từng bỏ vật lý để nghiên cứu các hiện tượng tâm linh. Trong một bức thư gửi tạp chí Nature danh tiếng, ông chê trách thái độ thờ ơ của cộng đồng khoa học đối với lĩnh vực tôn giáo và dị thường học. Theo ông, thực hành tôn giáo bắt nguồn từ các gien liên quan với tính thiện và có thể giúp các xã hội vận hành tốt hơn. Các nhà khoa học phản đối ông, cho rằng ngoài các yếu tố tích cực, hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo rất dễ gắn với các hành vi mê tín. Điều này không lạ, vì trong một số trường hợp, ranh giới giữa tín ngưỡng và mê tín cũng khá mơ hồ. Chẳng hạn thờ cúng người đã khuất là tín ngưỡng; vậy vay tiền bà chúa Kho là tín ngưỡng hay mê tín?
Theo quan điểm cá nhân, cần phân biệt hai kiểu mê tín: mê tín cũ và mê tín mới. Tin là có ma quỉ, linh hồn, thiên đường và địa ngục hay thực hành gọi vong, cầu hồn, lên đồng… là các hành vi mê tín kiểu cũ. Những hành vi này thì từ xa xưa cha ông ta cũng đã từng đả phá và nay chúng ta cần cương quyết và khôn khéo loại trừ. Sự vụ một cô đồng “nhập hồn lãnh tụ” cần xem là sự giả danh lãnh tụ, và việc lưu truyền băng đĩa về nó cần xem là hoạt động mê tín. Chúng và các hoạt động tương tự cần được ngăn chặn kịp thời, cương quyết, khôn khéo và lâu dài.
Khó ứng phó hơn là các hành vi mê tín mới. Tại phương Tây chúng nổi lên dưới cái tên Tân Kỷ nguyên (New Age). Trào lưu này cho rằng, dựa trên các lý thuyết mới như cơ học lượng tử, khoa học (tự nhiên) đã có thêm tính chủ quan, bên cạnh tính khách quan vốn có. Đã là chủ quan thì không thể bỏ qua các yếu tố thuộc về tinh thần hay “tâm linh” được. Tiến thêm một bước (không hợp lý, theo cá nhân người viết), trào lưu này làm sống lại các chủ đề cũ như xuất hồn, đầu thai và luân hồi, tiên tri, giao tiếp với người chết… với nhiều cơ sở nghiên cứu, thực hành và giảng dạy được thành lập, chủ yếu dựa trên tài trợ tư nhân. Như đã trình bày, đó là những hoạt động thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ, không vượt qua được các cuộc kiểm chứng nên đều không đáng tin cậy.
Cuối cùng là một số hành vi chưa hẳn là mê tín nhưng cũng cần được lưu tâm đúng mức. Đó là việc ca ngợi và vận dụng quá mức một số quan niệm và kinh nghiệm người xưa. Với cái nhìn khá tinh nhạy, người xưa đã quan sát, chiêm nghiệm và hệ thống hoá một số quan niệm, kiến thức và thực hành trong nhiều lĩnh vực, như y thuật, thuật phong thuỷ, tử vi, kinh Dịch… Tuy nhiên do hạn chế trong hiểu biết về cấu trúc và hành vi của con người và thế giới, nên các hệ thống đó chứa đựng nhiều quan niệm và hành động sai lầm. Với trình độ ngày nay, không khó để chỉ ra đúng sai, hay dở của các hệ thống đó. Một quan điểm đúng đắn trong việc gìn giữ bản sắc là gạn đục khơi trong, loại bỏ các yếu tố sai lầm, giữ lại các kinh nghiệm đúng để ứng dụng vào cuộc sống. Chẳng hạn quan niệm địa linh nhân kiệt. Người xưa cho rằng do khí thiêng sông núi hay mạch đất mà một địa phương có thể sinh nhiều hào kiệt . Vì thế mà có các quan niệm và hành vi sai lầm như “mả táng hàm Rồng” hay trấn yểm. Ngày nay ta biết rằng, chính con người (với mọi sắc thái sinh học và văn hoá) mới là yếu tố tạo nên hay tô điểm thêm cho một truyền thống văn hoá. Nếu không sẽ không hiểu tại sao các nhà Cần Vương thất bại mà Cách mạng tháng Tám lại thành công. Một ví dụ khác là nhà ở ngã ba bị đường đâm thẳng vào thì không tốt. Kết luận có thể giống nhau, nhưng khoa học giải thích bằng các lí do như dễ bị xe đâm trong các vụ tai nạn hay ảnh hưởng của sự căng thẳng thần kinh khi sống trong căn nhà đó, chứ không phải bằng các quan niệm siêu hình của người xưa. Quan niệm xung khắc tuổi cũng vậy. Khi cả hai người cùng tin tuổi họ xung khắc thì họ sẽ xét nét nhau từng tí một và cuối cùng thành xung khắc thật; trong khi nếu cùng tin hợp tuổi thì sẽ chín bỏ làm mười và cố gắng hợp tác tối đa, kết quả là hợp thật. Như vậy chính sức khoẻ thể chất và tâm thần, chính trí tuệ, cảm xúc, niềm tin và các giá trị tinh thần, cũng như môi trường sống và làm việc có văn hoá, chứ không phải ngày tháng năm sinh hay nơi sinh, mới là yếu tố quyết định chúng ta là ai, chúng ta sống và theo đuổi các giá trị như thế nào. Thiên thần hay ác quỉ nằm trong chính chúng ta, chứ không phải ở con sông hay ngọn núi.
Để kết thúc, xin nhấn mạnh rằng, niềm tin vào sự huyền bí là nhu cầu có thật của con người, và theo các nhà khoa học, nó lớn hơn mọi chứng cớ phản bác. Vì vậy chúng ta cần lựa chọn đúng đắn giữa các hoạt động tín ngưỡng và các hành vi mê tín, cho dù trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa chúng thật khó phân định. Với lập trường duy vật và cách nhìn biện chứng, với việc ứng dụng linh hoạt các thành tựu khoa học hiện đại, chúng ta có thể gạn đục khơi trong, góp phần gìn giữ những truyền thống văn hoá quí báu của dân tộc, bên cạnh việc kiên trì loại trừ các hành vi mê tín dị đoan.
Bài “Đất thiêng một giải nghiệm” trên Văn nghệ số 32, ngày 11-8-2007, khá điển hình cho một trào lưu mới tại nước ta hiện nay. Đó là sự lên ngôi của “khoa học tâm linh” hay các hoạt động mang tính tâm linh khác, tuy khái niệm tâm linh chưa bao giờ được làm rõ hay đạt sự đồng thuận. Đây là vấn đề quan trọng mà nếu không giải quyết, có thể gây nhiều hiểu lầm. Có ai ngờ thời thế lại đổi thay đến mức, người viết từng bị nhà thơ T.T.L. qui kết là hồng vệ binh và phản động chỉ vì không tin tâm linh có thật!
Tâm linh là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 1995, tâm linh là “1. Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xẩy ra với mình, theo quan niệm duy tâm. 2. (ít dùng) Tâm hồn, tinh thần”. Nếu đề nghị dịch thuật ngữ ra tiếng nước ngoài, có lẽ người biên soạn sẽ lúng túng.
Liên quan với tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là spiritualism(duy linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về một số hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết. Do nhiều tương đồng, nên chúng thường được đánh đồng với nhau. Tâm linh luận giả định có thể liên lạc với người chết qua đối tượng trung gian là giới đồng cốt - những người được xem là có khả năng nói chuyện với người chết.
Cần lưu ý rằng, linh hồn bất tử là ước nguyện rất tự nhiên của con người, vì đó là cách duy nhất để chúng ta chống chọi với thời gian và chiến thắng nỗi sợ hãi trước cái chết. Trong mọi nền văn hoá, đều tồn tại ước nguyện đó dưới nhiều hình thức, nhất là khi người xưa chưa hiểu biết đầy đủ về bản chất sự sống. Ngày nay, khi Miller (1953) tạo được axít amin nhờ tia lửa điện phóng qua ống nghiệm mô phỏng khí quyển Trái đất xưa, và khi nhiều phòng thí nghiệm đã gần tạo được tế bào nhân tạo, khoa học đã phát hiện bản chất tự nhiên của sự sống và khẳng định linh hồn không có thật. Là chức năng của bộ não, nên khi ta chết, tư duy, nhận thức và tình cảm chấm dứt, giống như hình ảnh, âm thanh trong tivi mất ngay khi ta ngắt điện. Nói cách khác, về mặt khoa học, linh hồn là quan điểm sai lầm.
Như vậy cần phân biệt ranh giới giữa các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo với các hoạt động khoa học. Thờ cúng và cầu xin người đã khuất phù hộ tại gia đình, đền chùa hay các cơ sở tôn giáo là các hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo cần được giữ gìn như một nét văn hoá đáng quí. Hoạt động này được pháp luật bảo vệ. Còn tổ chức nghiên cứu xem linh hồn có thật hay không lại là việc làm lạc hậu cả về thế giới quan và phương pháp luận. Về mặt thế giới quan, những hoạt động đó kéo lùi nhận thức của chúng ta ít nhất hai thế kỉ (Khi Wohler tổng hợp được urea năm 1828, quan niệm linh hồn đã bị bác bỏ về mặt sinh học). Về mặt phương pháp, các nghiên cứu về cầu hồn hay gọi vong tại nước ta mắc lỗi nghiêm trọng trong thiết kế, đánh giá và bàn luận kết quả. Kết quả là một trung tâm nghiên cứu với nhiều nhà khoa học có tiếng đã kết luận cô đồng Phương tại Thanh Hoá thực sự có khả năng gọi hồn người chết. Trong khi đó, với sự nghi ngờ đúng đắn (xin lưu ý, tín ngưỡng hay tôn giáo dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ) và “thiết kế thực nghiệm” đơn giản, một phóng viên báo Công an TPHCM đã phát hiện sự thật khi cô đồng nổi danh này mắc bẫy nói chuyện với “vong” không có thật.
Các hiện tượng dị thường:
Như đã trình bày, vì quan niệm linh hồn đã bị xem là lạc hậu, nên giới nghiên cứu nước ngoài tỏ ra ưa thích thuật ngữ psychic, cũng được hiểu là tâm linh (theo nghĩa thứ nhất trong Từ điển tiếng Việt). Nó bao gồm ba phạm trù: ngoại cảm, tức khả năng nhận biết phi ngũ quan (gồm thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri); tác động của tinh thần lên vật chất (chẳng hạn “nhìn cong thìa”); và các hiện tượng liên quan với người chết. Người có một hay nhiều khả năng như trên được gọi là nhà ngoại cảm hay tâm linh. Thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, giới ngoại cảm nước ta xuất hiện như nấm sau mưa. Tự cho là có nhiều khả năng khác nhau, nhưng để đáp ứng nhu cầu tìm hài cốt liệt sĩ tăng rất cao sau hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, nhiều nhà ngoại cảm tuyên bố có khả năng tìm mộ, chủ yếu do “nói chuyện với người chết”.
Cần nhấn mạnh rằng, sau hơn một thế kỉ nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra tám lí do nghi ngờ ngoại cảm và tâm linh như sau:
1) Sự tiến bộ là tiêu chí bắt buộc của một khoa học tốt.Ngành cận tâm lý (nghiên cứu ngoại cảm và tâm linh) không đạt được một tiến bộ đáng kể nào, kể từ khi Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trên thế giới được thành lập tại Anh năm 1882.
2) Ngoại cảm được định nghĩa khác thường, không theo nghĩa nó là cái gì, mà theo nghĩa không là cái gì, nên rất khó giới hạn phạm vi nghiên cứu.
3) Bằng chứng của tâm linh thường không đáng tin, vì chỉ dựa trên lời kể của những người thiếu kiến thức chuyên môn.
4) Nghiên cứu về tâm linh thường mắc lỗi giản lược trong nhận thức và phương pháp.
5) Tâm linh không liên quan với bất cứ lý thuyết khoa học đã được khẳng định nào.
6) Nghiên cứu tâm linh có tính lặp lại kém.
7) Ngụy tạo và lừa gạt gắn bó chặt chẽ với tâm linh trong suốt tiến trình lịch sử.
8) Nhiều hiện tượng tâm linh có thể giải thích theo cách thông thường, mà hiện tượng ma nhập là điển hình (đó là hiện tượng đa nhân cách trong lĩnh vực tâm thần học).
Xin nhấn mạnh hai lí do thứ 3 và 4. Cho đến nay, chưa một ai đưa ra được một bằng chứng thuyết phục về tâm linh. Thế nào là một bằng chứng đáng tin cậy? Đó là bằng chứng thu được trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt nhằm loại bỏ các kênh cảm giác (vì ngoại cảm là khả năng nhận biết phi ngũ quan), sự lừa gạt hay nguỵ tạo. Nghiên cứu tại nước ta không thoả mãn các tiêu chí này, vì thế các kết luận đều không đáng tin. Hiện quĩ James Randi (nhà ảo thuật chứng tỏ khả năng “nhìn cong thìa” của Iuri Geller chỉ là ảo thuật) treo giải một triệu đô la Mĩ cho bất cứ ai thực hiện được khả năng ngoại cảm trong một thí nghiệm có kiểm soát. Các tổ chức nghiên cứu tại Pháp, Úc, Canada… cũng treo giải 200.000 euro mỗi nước. Và trên hết là giải thưởng 50 triệu đô la cho người chỉ ra vị trí của trùm khủng bố Bin Laden. Cần lưu ý, tất cả các nhà ngoại cảm từng thử nghiệm đều đã thất bại.
Ngược với sự nghi ngờ của giới chuyên môn, sự quan tâm của quần chúng đối với ngoại cảm và tâm linh không hề suy giảm vì bất cứ lí do nào. Đó là căn nguyên khiến nữ tiến sĩ tâm lí Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất. Đã từng xuất hồn và sau mấy chục năm nghiên cứu, bà nhận thấy “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Nói cách khác, vì muốn tin nên chúng ta có xu hướng bác bỏ mù quáng mọi chứng cớ chống lại niềm tin đó!
Chính vì vậy, Uỷ ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP được thành lập tại Mĩ năm 1976 nhằm ngăn chặn “cơn triều dâng của nạn mê tín và sự thừa nhận không phê phán các hiện tượng dị thường” và “khám phá các tuyên bố (về dị thường) và xuất bản các báo cáo khoa học về tính hiện thực của chúng”. Nhiều nhà khoa học lừng danh tham gia sáng lập CSICOP, như nhà vật lý Kapitxa (Nobel vật lý), nhà vật lý và thần kinh học Crick (Nobel sinh lý và y học), nhà tâm lý Skinner (cha đẻ thuyết hành vi), nhà thiên văn Sagan (cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh ngoài trái đất SETI), nhà sinh học tiến hoá Gould (cha đẻ thuyết Darwin hiện đại hoá), nhà ảo thuật Randi (khám phá nhiều màn ảo thuật đội lốt tâm linh), nhà sinh học Dawkins (bác bỏ quan niệm về nguyên lý sáng tạo tối cao của một số nhà khoa học hàng đầu)… Với đội ngũ nhân lực hùng hậu, với tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ xuất bản hàng quí, với hàng loại khảo cứu chuẩn mực về mặt phương pháp, CSICOP là thách thức chưa thể vượt qua đối với giới ngoại cảm và tâm linh trên toàn thế giới. Các tổ chức tương tự cũng xuất hiện tại Nga, Ucraina, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha, Ý, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil, Achentina, Hồng Kong, Đài Loan và nhiều quốc gia khác. Bạn đọc quan tâm tới các hoạt động của CSICOP có thể vào trang http://www.csicop.com/ để tìm hiểu thêm.
Tại sao giới bói toán hay đồng cốt dường như chính xác?
Nếu ngoại cảm và tâm linh không đáng tin cậy, tại sao một cô đồng giỏi có thể biết một số thông tin về người chết?
Nhiều người cho rằng đó là bằng chứng cho thấy linh hồn có thật và giới đồng cốt quả thật có khả năng nói chuyện với người chết. Tuy nhiên sau khám phá của Ray Hyman (cũng là sáng lập viên của CSICOP), sự thật về giới bói toán và đồng cốt đã được khám phá. Trong bài báo “Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào” trên Người yêu cầu nghi ngờ, tập 1, số 2, năm 1977, Hyman đã phát hiện kỹ thuật đọc nguội (cold reading). Đó là kỹ thuật lấy tin từ chính thân chủ bằng nhiều phương cách như nói lấp lửng nước đôi, đọc ngôn ngữ cơ thể… (thày bói hay cô đồng thường nói tràng giang đại hải, khi gặp thông tin khớp, ta thường nhướn mày, chớp mắt, rung cơ, thở nhanh… nên cô đồng nắm được. Giới chuyên môn gọi là hiệu ứng Hans thông minh, khi ngựa Hans tại Berlin đầu thế kỉ 20 “biết làm toán” do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện). Chính vì vậy trong cuốn Sự thật đầy đủ về đọc nguội, Rowland viết: “Trong một buổi gọi hồn thành công, cô đồng có thể nói hầu hết thời gian, nhưng chính người hầu đồng mới là người cung cấp ngữ nghĩa và ý nghĩa của những ngôn từ đó“. Ở đây câu ngạn ngữ Tây Ban Nha tỏ ra thích hợp “Người nói nhiều đôi khi cũng đúng”!
Có thể kể thêm hai kỹ thuật đơn giản là đọc nóng (hot reading) và đọc ấm (warm reading). Đọc nóng là cách lấy tin trước khi bói hay gọi hồn. Ta cứ phải chầu chực mãi mới được bói hay hầu đồng là vì vậy. Còn đọc ấm là việc áp dụng các nguyên lý tâm lý thông thường cho thân nhân người đã khuất. Chẳng hạn giới đồng cốt Mĩ thường nói người chết cảm thấy đau đầu hay đau tim. Thông báo này có xác suất đúng cao vì đột quị não và nhồi máu cơ tim là những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mĩ. Với một cô đồng giỏi cả ba kỹ thuật, người nghe không tin mới là chuyện lạ!
Vậy có thể kiểm chứng độ xác thực của khả năng “ngoại cảm tìm mộ“ hay không? Cách giải quyết thực ra rất dễ dàng: hoặc xét nghiệm ADN trên hài cốt tìm được, hoặc thực nghiệm với các trường hợp thật giả lẫn lộn. Người viết bài này tin rằng, nếu tổ chức tốt các thử nghiệm có kiểm soát, không một nhà ngoại cảm nào dám chấp nhận thách thức. Vấn đề chỉ là chúng ta có muốn kiểm chứng hay không mà thôi.
Cần bài trừ nạn mê tín mới:
Có lẽ ít người phản đối việc tách biệt hành vi mê tín khỏi các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên đâu là ranh giới giữa mê tín và tín ngưỡng lại là vấn đề rất khó đạt được sự đồng thuận. Đó là vấn đề lớn của toàn nhân loại chứ không riêng của nước ta. Chẳng hạn tại Anh, nhà khoa học đoạt giải Nobel Josephson từng bỏ vật lý để nghiên cứu các hiện tượng tâm linh. Trong một bức thư gửi tạp chí Nature danh tiếng, ông chê trách thái độ thờ ơ của cộng đồng khoa học đối với lĩnh vực tôn giáo và dị thường học. Theo ông, thực hành tôn giáo bắt nguồn từ các gien liên quan với tính thiện và có thể giúp các xã hội vận hành tốt hơn. Các nhà khoa học phản đối ông, cho rằng ngoài các yếu tố tích cực, hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo rất dễ gắn với các hành vi mê tín. Điều này không lạ, vì trong một số trường hợp, ranh giới giữa tín ngưỡng và mê tín cũng khá mơ hồ. Chẳng hạn thờ cúng người đã khuất là tín ngưỡng; vậy vay tiền bà chúa Kho là tín ngưỡng hay mê tín?
Theo quan điểm cá nhân, cần phân biệt hai kiểu mê tín: mê tín cũ và mê tín mới. Tin là có ma quỉ, linh hồn, thiên đường và địa ngục hay thực hành gọi vong, cầu hồn, lên đồng… là các hành vi mê tín kiểu cũ. Những hành vi này thì từ xa xưa cha ông ta cũng đã từng đả phá và nay chúng ta cần cương quyết và khôn khéo loại trừ. Sự vụ một cô đồng “nhập hồn lãnh tụ” cần xem là sự giả danh lãnh tụ, và việc lưu truyền băng đĩa về nó cần xem là hoạt động mê tín. Chúng và các hoạt động tương tự cần được ngăn chặn kịp thời, cương quyết, khôn khéo và lâu dài.
Khó ứng phó hơn là các hành vi mê tín mới. Tại phương Tây chúng nổi lên dưới cái tên Tân Kỷ nguyên (New Age). Trào lưu này cho rằng, dựa trên các lý thuyết mới như cơ học lượng tử, khoa học (tự nhiên) đã có thêm tính chủ quan, bên cạnh tính khách quan vốn có. Đã là chủ quan thì không thể bỏ qua các yếu tố thuộc về tinh thần hay “tâm linh” được. Tiến thêm một bước (không hợp lý, theo cá nhân người viết), trào lưu này làm sống lại các chủ đề cũ như xuất hồn, đầu thai và luân hồi, tiên tri, giao tiếp với người chết… với nhiều cơ sở nghiên cứu, thực hành và giảng dạy được thành lập, chủ yếu dựa trên tài trợ tư nhân. Như đã trình bày, đó là những hoạt động thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ, không vượt qua được các cuộc kiểm chứng nên đều không đáng tin cậy.
Cuối cùng là một số hành vi chưa hẳn là mê tín nhưng cũng cần được lưu tâm đúng mức. Đó là việc ca ngợi và vận dụng quá mức một số quan niệm và kinh nghiệm người xưa. Với cái nhìn khá tinh nhạy, người xưa đã quan sát, chiêm nghiệm và hệ thống hoá một số quan niệm, kiến thức và thực hành trong nhiều lĩnh vực, như y thuật, thuật phong thuỷ, tử vi, kinh Dịch… Tuy nhiên do hạn chế trong hiểu biết về cấu trúc và hành vi của con người và thế giới, nên các hệ thống đó chứa đựng nhiều quan niệm và hành động sai lầm. Với trình độ ngày nay, không khó để chỉ ra đúng sai, hay dở của các hệ thống đó. Một quan điểm đúng đắn trong việc gìn giữ bản sắc là gạn đục khơi trong, loại bỏ các yếu tố sai lầm, giữ lại các kinh nghiệm đúng để ứng dụng vào cuộc sống. Chẳng hạn quan niệm địa linh nhân kiệt. Người xưa cho rằng do khí thiêng sông núi hay mạch đất mà một địa phương có thể sinh nhiều hào kiệt . Vì thế mà có các quan niệm và hành vi sai lầm như “mả táng hàm Rồng” hay trấn yểm. Ngày nay ta biết rằng, chính con người (với mọi sắc thái sinh học và văn hoá) mới là yếu tố tạo nên hay tô điểm thêm cho một truyền thống văn hoá. Nếu không sẽ không hiểu tại sao các nhà Cần Vương thất bại mà Cách mạng tháng Tám lại thành công. Một ví dụ khác là nhà ở ngã ba bị đường đâm thẳng vào thì không tốt. Kết luận có thể giống nhau, nhưng khoa học giải thích bằng các lí do như dễ bị xe đâm trong các vụ tai nạn hay ảnh hưởng của sự căng thẳng thần kinh khi sống trong căn nhà đó, chứ không phải bằng các quan niệm siêu hình của người xưa. Quan niệm xung khắc tuổi cũng vậy. Khi cả hai người cùng tin tuổi họ xung khắc thì họ sẽ xét nét nhau từng tí một và cuối cùng thành xung khắc thật; trong khi nếu cùng tin hợp tuổi thì sẽ chín bỏ làm mười và cố gắng hợp tác tối đa, kết quả là hợp thật. Như vậy chính sức khoẻ thể chất và tâm thần, chính trí tuệ, cảm xúc, niềm tin và các giá trị tinh thần, cũng như môi trường sống và làm việc có văn hoá, chứ không phải ngày tháng năm sinh hay nơi sinh, mới là yếu tố quyết định chúng ta là ai, chúng ta sống và theo đuổi các giá trị như thế nào. Thiên thần hay ác quỉ nằm trong chính chúng ta, chứ không phải ở con sông hay ngọn núi.
Để kết thúc, xin nhấn mạnh rằng, niềm tin vào sự huyền bí là nhu cầu có thật của con người, và theo các nhà khoa học, nó lớn hơn mọi chứng cớ phản bác. Vì vậy chúng ta cần lựa chọn đúng đắn giữa các hoạt động tín ngưỡng và các hành vi mê tín, cho dù trong nhiều trường hợp, ranh giới giữa chúng thật khó phân định. Với lập trường duy vật và cách nhìn biện chứng, với việc ứng dụng linh hoạt các thành tựu khoa học hiện đại, chúng ta có thể gạn đục khơi trong, góp phần gìn giữ những truyền thống văn hoá quí báu của dân tộc, bên cạnh việc kiên trì loại trừ các hành vi mê tín dị đoan.
Trao đổi/nhận xét (27)
Hãy thận trọng
Thứ sáu, 08/05/2009 01:26' PM
-
Đạo Trường
hoahongblackrose@...
"Để kết thúc, xin
nhấn mạnh rằng, niềm tin vào sự huyền bí là nhu cầu có thật của con
người, và theo các nhà khoa học, nó lớn hơn mọi chứng cớ phản bác".
Nếu là nhà khoa học thực thụ thì người ta sẽ dễ dàng hiểu " niềm tin lớn hơn mọi chứng cớ phản bác " là kết luận chưa đủ để suy diễn ra một khẳng định mới là " không có sự huyền bí ".
Tiền đề của " niềm tin vào sự huyền bí" không phải bắt nguồn từ " nhu cầu có thật của con người" mà bắt nguồn từ :
1/ Sự tồn tại có thật của nhiều hiện tượng huyền bí.
2/ Nhiều trường hợp huyền bí khoa học chưa đủ khả năng chứng minh cụ thể lẫn lý luận minh triết để phản bác nhưng lại cố gắng đưa ra GIẢ THUYẾT CHỦ QUAN để phản bác. Thái độ cực đoan này của chính nhà khoa học đã trở thành phản khoa học và củng cố thêm niềm tin vào huyền bí đó, thậm chí đẩy người ta đến mê tín. Các nhà khoa học phê bình những người tin huyền bí là dân mê tín " cái có, sự khẳng định", ngược lại nhiều người tin có huyền bí phê bình các nhà khoa học là dân mê tín " cái không, sự phủ định" , như vậy đều là dân mê tín chê nhau cả mà thôi.
3/ Để trình bày vấn đề được thuyết phục thì người ta phải đi tổng hợp và phân tích, đối chiếu, phản biện hàng loạt hiện tượng tâm linh để nắm vững bản chất, nguồn gốc của tâm linh rồi người ta mới có kiến thức và lý luận giải thích các hiện tượng tâm linh. Các nhà khoa học hiện nay lại làm ngược đời : đi giải thích các hiện tượng rồi nhân tiện khẳng định bản chất của tâm linh. Như vậy các nhà khoa học càng nói nhiều người ta càng không chịu nghe.
4/ Hiện tượng huyền bí thực ra cũng đã có những hệ thống kiến thức, triết lý từ xa xưa giải thích và trải nghiệm của con người qua nhiều nghìn năm chứng minh - điển hình là triết Phật và các nhà sư.
Tôi xin nêu lại tình huống nghiên cứu về luân hồi. Trước các hiện tượng luân hồi đã xảy ra cụ thể, chính xác, các nhà khoa học đã giải thích gượng ép bằng học thuyết tâm lý tâm thần và thần kinh của mình. Các nhà khoa học quy kết rằng luân hồi là quan điểm duy tâm, trong khi bản chất thuyết luân hồi không phải duy tâm. Những người chứng kiến và những người nghe không chấp nhận được cách giải thích đó vì thấy các nhà khoa học rõ ràng là đã có sự hiểu sai lầm và cảm thấy lý lẽ nhà khoa học rất nguỵ biện ( trong khi các nhà khoa học lại tự tin về sự sáng suốt của mình). Khi các nhà nghiên cứu trẻ sơ sinh đã thấy những hiện tượng chỉ giải thích được bằng thuyết luân hồi chứ không thể giải thích bằng tâm lý học, thần kinh học được ( trẻ vừa mới sinh ra không có thời gian trải nghiệm để xây dựng tâm sinh lý phức tạp của hoạt động thần kinh ). Trước tình huống này các nhà khoa học "mê tín phủ nhận" im re và lờ đi. Cũng giống như họ lờ đi khi xét Khái niệm luân hồi về mặt khoa học thì nó hoàn toàn phù hợp tính có quy luật của thế giới. Xét xa hợn nữa ta sẽ thấy nghiên cứu về luân hồi chịu sự can thiệp ngấm ngầm nhưng rất kịch liệt của các tôn giáo khác đạo Phật. Không phải nhà khoa học nào cũng giữ được bản lĩnh không tôn giáo, nhà khoa học cũng có năm bảy đường nhà khoa học. Các nhà khoa học VN nên nghiên cứu một cách khách quan để có kết quả nhận định cụ thể của mình, chỉ nên coi kết quả nghiên cứu trên thế giới là tài liệu tham khảo.
Cứ ngồi đọc tổng hợp về một vấn đề nhạy cảm, rồi suy diễn thì nguy cơ sai lệch so với thực tiễn là rất lớn. Đây chính là lý do tôi ủng hộ sự thành lập TTNCTNCN của nước ta, mặc dù bước đầu có những va vấp khuyết điểm. Tôi nghĩ nhiệm vụ của trung tâm này không phải là cố gắng phủ nhận hay đả phá sự huyền bí mà là cố gắng hiểu huyền bí một cách khách quan.
Giữ được lập trường khoa học thực sự khách quan là cực kỳ khó, đòi hỏi nhà khoa học không được định kiến mù quáng - khái niệm trong triết Phật là tránh chấp trước và phải giỏi ( không vô minh). Không như vậy sẽ đi vào vết xe đổ " nhiệt tình cộng với ngu dốt là kẻ phá hoại "
Những người theo triết Phật và những nhà sư chân chính rất không đồng tình với sự mê tín, mê tín là vô minh. Cũng không đồng tình với những nỗ lực chống mê tín nhưng lại làm tăng mê tín.
Nếu là nhà khoa học thực thụ thì người ta sẽ dễ dàng hiểu " niềm tin lớn hơn mọi chứng cớ phản bác " là kết luận chưa đủ để suy diễn ra một khẳng định mới là " không có sự huyền bí ".
Tiền đề của " niềm tin vào sự huyền bí" không phải bắt nguồn từ " nhu cầu có thật của con người" mà bắt nguồn từ :
1/ Sự tồn tại có thật của nhiều hiện tượng huyền bí.
2/ Nhiều trường hợp huyền bí khoa học chưa đủ khả năng chứng minh cụ thể lẫn lý luận minh triết để phản bác nhưng lại cố gắng đưa ra GIẢ THUYẾT CHỦ QUAN để phản bác. Thái độ cực đoan này của chính nhà khoa học đã trở thành phản khoa học và củng cố thêm niềm tin vào huyền bí đó, thậm chí đẩy người ta đến mê tín. Các nhà khoa học phê bình những người tin huyền bí là dân mê tín " cái có, sự khẳng định", ngược lại nhiều người tin có huyền bí phê bình các nhà khoa học là dân mê tín " cái không, sự phủ định" , như vậy đều là dân mê tín chê nhau cả mà thôi.
3/ Để trình bày vấn đề được thuyết phục thì người ta phải đi tổng hợp và phân tích, đối chiếu, phản biện hàng loạt hiện tượng tâm linh để nắm vững bản chất, nguồn gốc của tâm linh rồi người ta mới có kiến thức và lý luận giải thích các hiện tượng tâm linh. Các nhà khoa học hiện nay lại làm ngược đời : đi giải thích các hiện tượng rồi nhân tiện khẳng định bản chất của tâm linh. Như vậy các nhà khoa học càng nói nhiều người ta càng không chịu nghe.
4/ Hiện tượng huyền bí thực ra cũng đã có những hệ thống kiến thức, triết lý từ xa xưa giải thích và trải nghiệm của con người qua nhiều nghìn năm chứng minh - điển hình là triết Phật và các nhà sư.
Tôi xin nêu lại tình huống nghiên cứu về luân hồi. Trước các hiện tượng luân hồi đã xảy ra cụ thể, chính xác, các nhà khoa học đã giải thích gượng ép bằng học thuyết tâm lý tâm thần và thần kinh của mình. Các nhà khoa học quy kết rằng luân hồi là quan điểm duy tâm, trong khi bản chất thuyết luân hồi không phải duy tâm. Những người chứng kiến và những người nghe không chấp nhận được cách giải thích đó vì thấy các nhà khoa học rõ ràng là đã có sự hiểu sai lầm và cảm thấy lý lẽ nhà khoa học rất nguỵ biện ( trong khi các nhà khoa học lại tự tin về sự sáng suốt của mình). Khi các nhà nghiên cứu trẻ sơ sinh đã thấy những hiện tượng chỉ giải thích được bằng thuyết luân hồi chứ không thể giải thích bằng tâm lý học, thần kinh học được ( trẻ vừa mới sinh ra không có thời gian trải nghiệm để xây dựng tâm sinh lý phức tạp của hoạt động thần kinh ). Trước tình huống này các nhà khoa học "mê tín phủ nhận" im re và lờ đi. Cũng giống như họ lờ đi khi xét Khái niệm luân hồi về mặt khoa học thì nó hoàn toàn phù hợp tính có quy luật của thế giới. Xét xa hợn nữa ta sẽ thấy nghiên cứu về luân hồi chịu sự can thiệp ngấm ngầm nhưng rất kịch liệt của các tôn giáo khác đạo Phật. Không phải nhà khoa học nào cũng giữ được bản lĩnh không tôn giáo, nhà khoa học cũng có năm bảy đường nhà khoa học. Các nhà khoa học VN nên nghiên cứu một cách khách quan để có kết quả nhận định cụ thể của mình, chỉ nên coi kết quả nghiên cứu trên thế giới là tài liệu tham khảo.
Cứ ngồi đọc tổng hợp về một vấn đề nhạy cảm, rồi suy diễn thì nguy cơ sai lệch so với thực tiễn là rất lớn. Đây chính là lý do tôi ủng hộ sự thành lập TTNCTNCN của nước ta, mặc dù bước đầu có những va vấp khuyết điểm. Tôi nghĩ nhiệm vụ của trung tâm này không phải là cố gắng phủ nhận hay đả phá sự huyền bí mà là cố gắng hiểu huyền bí một cách khách quan.
Giữ được lập trường khoa học thực sự khách quan là cực kỳ khó, đòi hỏi nhà khoa học không được định kiến mù quáng - khái niệm trong triết Phật là tránh chấp trước và phải giỏi ( không vô minh). Không như vậy sẽ đi vào vết xe đổ " nhiệt tình cộng với ngu dốt là kẻ phá hoại "
Những người theo triết Phật và những nhà sư chân chính rất không đồng tình với sự mê tín, mê tín là vô minh. Cũng không đồng tình với những nỗ lực chống mê tín nhưng lại làm tăng mê tín.
Tâm linh huyền bí
Chủ nhật, 10/05/2009 02:42' PM
-
Phạm Quang Trung
trungfq@...
Theo dõi các bài viết của ông tiến sĩ Đỗ Kiên Cường.
Tôi thấy quả thật ông ít trải nghiệm mà chủ yếu dựa trên các tài liệu rồi suy luận một cách hết sức sai lầm và nguy hiểm.
Dựa trên một vài hiện tượng cá biệt để rồi kết luận, liệu có khoa học không? Có nhiều hiện tượng chúng ta chưa thể hoặc không thể giải thích bằng khoa học được nhưng chúng vẫn tồn tại trên thức tế, ta chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim.
Tôi thấy quả thật ông ít trải nghiệm mà chủ yếu dựa trên các tài liệu rồi suy luận một cách hết sức sai lầm và nguy hiểm.
Dựa trên một vài hiện tượng cá biệt để rồi kết luận, liệu có khoa học không? Có nhiều hiện tượng chúng ta chưa thể hoặc không thể giải thích bằng khoa học được nhưng chúng vẫn tồn tại trên thức tế, ta chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim.
Tiền hậu bất nhất
Thứ ba, 12/05/2009 12:27' AM
-
Trần Quang Đại
quangdaiht@...
"..tôi ủng hộ sự thành lập
TTNCTNCN của nước ta, mặc dù bước đầu có những va vấp khuyết điểm. Tôi
nghĩ nhiệm vụ của trung tâm này không phải là cố gắng phủ nhận hay đả
phá sự huyền bí mà là cố gắng hiểu huyền bí một cách khách quan".
Đó là ý kiến của anh Đạo Trường vào ngày 8/5/2009.
Còn đây là ý kiến của anh được post lên mạng ngày 17/3/09: "Tôi đã thấy rằng việc nghiên cứu ngoại cảm của TTNCTNCN là chưa khoa học.(...) Muốn nghiên cứu thì cứ việc nghiên cứu nhưng xin đừng làm hại đến đời sống xã hội".
Hay là có hai anh Đạo Trường? Lẽ nào anh Đạo Trường lại tự tranh cãi với mình giống như võ công của nhân vật Chu Bá Thông trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung?
Anh nói: "Cứ ngồi đọc tổng hợp về một vấn đề nhạy cảm, rồi suy diễn thì nguy cơ sai lệch so với thực tiễn là rất lớn". Và vì vậy anh ủng hộ sự ra đời và hoạt động của TTNCTNCN.
Ý kiến của anh khiến tôi suy nghĩ đến việc nhà lãnh đạo Trung Quốc ra chỉ thị cho toàn dân nấu gang thép để Trung Quốc có sản lượng thép đứng đầu thế giới. Tuy sản lượng thép của TQ tăng vọt nhưng đó chỉ là những thứ thép vô giá trị. Lại nhớ chuyện người nông dân Việt Nam mày mò chế tạo máy bay trực thăng, mất biết bao nhiêu thời gian và công sức, tiền bạc rồi cũng chỉ tạo ra một phế phẩm.
Việc ra đời và hoạt động của TTNCTNCN Việt Nam nào có khác gì?
Một nhà khoa học đã bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, tổng hợp kết quả nghiên cứu của nước ngoài (nơi có phương tiện kĩ thuật hiện đại, thời gian nghiên cứu lâu dài, phương pháp khoa học...) về cùng một đề tài lại bị xem là "ngồi đọc tổng hợp về một vấn đề nhạy cảm, rồi suy diễn"... thậm chí còn bị kết luận "suy luận một cách hết sức sai lầm và nguy hiểm"...Nghe cứ như đấu tố trong cải cách ruộng đất! Ông Đỗ Kiên Cường đã "suy diễn, suy luận hết sức sai lầm" như thế nào, ở chỗ nào???
Khi đã nắm được rằng không có linh hồn, sao lại còn trách ông này không tổ chức thực nghiệm về linh hồn?? Xin thưa thêm là ông Đỗ Kiên Cường không chỉ ngồi trong phòng đọc sách, lướt web đâu, ông đã tham gia nghiên cứu thực địa rồi đấy.
Người khác dựa trên các nguyên lý khoa học để giải quyết vấn đề thì kết luận là "tằng thêm mê tín", trong khi đó mình lại dựa vào niềm tin tôn giáo để giải thích thì lại cho rằng đó là khoa học. Một nhà sư giải thích việc không có linh hồn là do linh hồn đã đi đầu thai ngay sau khi chết. Nghe cứ như đùa.
Trước một ý kiến phản biện rất gay gắt:
"Bản thân các tôn giáo không có chức năng giải thích thế giới, mà chỉ tạo ra tập hợp các hệ thống luân lý để giúp đỡ tổ chức xã hội loài người mà thôi. Kinh của các tôn giáo cũng đầy rẫy sai lầm và luôn luôn phải sửa chữa.
Những bài viết kiểu như thế này một lần nữa lại chứng tỏ tôn giáo luôn dựa dẫm vào khoa học để tồn tại.
Chê bai người khác mê tín dị đoan chỉ với mục đích duy nhất là truyền đạo. Chả trách tôn giáo chỉ thu hút được đa số giáo dân là những người có năng lực tư duy thấp và trung bình".
Anh Đạo Trường đã không thể bắt bẻ được, chỉ biết "Hoan hô", nhưng vẫn một mực cho rằng Phật giáo là một tôn giáo siêu việt: "Đức Phật dạy cho loài người những kiến thức cơ bản của thế giới này. Những kiến thức vì là cơ bản và đúng đắn nên đi trước thời đại, hướng dẫn thời đại. Truyền thông ? năng lượng hạt nhân ? Phi thuyền ? robot ? không gian đa chiều ( vũ trụ tồn tại nhiều thế giới ) ? bigbang ?..những thành tựu hiện đại này không có gì làm ngạc nhiên những người theo triết Phật 2500năm nay, thậm chí họ còn cho rằng như thế cũng chưa phải là hiện đại và dễ dàng chỉ ra những ý tưởng mới phục vụ mục đích có đạo đức của con người".?!
Theo như anh Đạo Trường, người Việt, và nhân loại nói chung, không cần học hành, nghiên cứu gì nữa cả, chỉ cần nghiên cứu Phật giáo là đủ, quá đủ?
Tài!
Đó là ý kiến của anh Đạo Trường vào ngày 8/5/2009.
Còn đây là ý kiến của anh được post lên mạng ngày 17/3/09: "Tôi đã thấy rằng việc nghiên cứu ngoại cảm của TTNCTNCN là chưa khoa học.(...) Muốn nghiên cứu thì cứ việc nghiên cứu nhưng xin đừng làm hại đến đời sống xã hội".
Hay là có hai anh Đạo Trường? Lẽ nào anh Đạo Trường lại tự tranh cãi với mình giống như võ công của nhân vật Chu Bá Thông trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung?
Anh nói: "Cứ ngồi đọc tổng hợp về một vấn đề nhạy cảm, rồi suy diễn thì nguy cơ sai lệch so với thực tiễn là rất lớn". Và vì vậy anh ủng hộ sự ra đời và hoạt động của TTNCTNCN.
Ý kiến của anh khiến tôi suy nghĩ đến việc nhà lãnh đạo Trung Quốc ra chỉ thị cho toàn dân nấu gang thép để Trung Quốc có sản lượng thép đứng đầu thế giới. Tuy sản lượng thép của TQ tăng vọt nhưng đó chỉ là những thứ thép vô giá trị. Lại nhớ chuyện người nông dân Việt Nam mày mò chế tạo máy bay trực thăng, mất biết bao nhiêu thời gian và công sức, tiền bạc rồi cũng chỉ tạo ra một phế phẩm.
Việc ra đời và hoạt động của TTNCTNCN Việt Nam nào có khác gì?
Một nhà khoa học đã bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, tổng hợp kết quả nghiên cứu của nước ngoài (nơi có phương tiện kĩ thuật hiện đại, thời gian nghiên cứu lâu dài, phương pháp khoa học...) về cùng một đề tài lại bị xem là "ngồi đọc tổng hợp về một vấn đề nhạy cảm, rồi suy diễn"... thậm chí còn bị kết luận "suy luận một cách hết sức sai lầm và nguy hiểm"...Nghe cứ như đấu tố trong cải cách ruộng đất! Ông Đỗ Kiên Cường đã "suy diễn, suy luận hết sức sai lầm" như thế nào, ở chỗ nào???
Khi đã nắm được rằng không có linh hồn, sao lại còn trách ông này không tổ chức thực nghiệm về linh hồn?? Xin thưa thêm là ông Đỗ Kiên Cường không chỉ ngồi trong phòng đọc sách, lướt web đâu, ông đã tham gia nghiên cứu thực địa rồi đấy.
Người khác dựa trên các nguyên lý khoa học để giải quyết vấn đề thì kết luận là "tằng thêm mê tín", trong khi đó mình lại dựa vào niềm tin tôn giáo để giải thích thì lại cho rằng đó là khoa học. Một nhà sư giải thích việc không có linh hồn là do linh hồn đã đi đầu thai ngay sau khi chết. Nghe cứ như đùa.
Trước một ý kiến phản biện rất gay gắt:
"Bản thân các tôn giáo không có chức năng giải thích thế giới, mà chỉ tạo ra tập hợp các hệ thống luân lý để giúp đỡ tổ chức xã hội loài người mà thôi. Kinh của các tôn giáo cũng đầy rẫy sai lầm và luôn luôn phải sửa chữa.
Những bài viết kiểu như thế này một lần nữa lại chứng tỏ tôn giáo luôn dựa dẫm vào khoa học để tồn tại.
Chê bai người khác mê tín dị đoan chỉ với mục đích duy nhất là truyền đạo. Chả trách tôn giáo chỉ thu hút được đa số giáo dân là những người có năng lực tư duy thấp và trung bình".
Anh Đạo Trường đã không thể bắt bẻ được, chỉ biết "Hoan hô", nhưng vẫn một mực cho rằng Phật giáo là một tôn giáo siêu việt: "Đức Phật dạy cho loài người những kiến thức cơ bản của thế giới này. Những kiến thức vì là cơ bản và đúng đắn nên đi trước thời đại, hướng dẫn thời đại. Truyền thông ? năng lượng hạt nhân ? Phi thuyền ? robot ? không gian đa chiều ( vũ trụ tồn tại nhiều thế giới ) ? bigbang ?..những thành tựu hiện đại này không có gì làm ngạc nhiên những người theo triết Phật 2500năm nay, thậm chí họ còn cho rằng như thế cũng chưa phải là hiện đại và dễ dàng chỉ ra những ý tưởng mới phục vụ mục đích có đạo đức của con người".?!
Theo như anh Đạo Trường, người Việt, và nhân loại nói chung, không cần học hành, nghiên cứu gì nữa cả, chỉ cần nghiên cứu Phật giáo là đủ, quá đủ?
Tài!
Hãy bình tĩnh và xem lại
Thứ năm, 14/05/2009 02:38' PM
-
Đạo trường
hoahongblackrose@...
1/ Quan điểm của tôi luôn thống nhất. Hãy đọc kỹ lại xem có đúng là quan điểm của tôi là như thế này không ?
- TTNCTNCN chưa khoa học, chứ không phải là không khoa học. Trung tâm này sẽ dần có khoa học vì tôi tin mọi người của trung tâm có tấm lòng và nhiệt tình trong sáng đồng thời mọi người chúng ta ai cũng có lòng đấu tranh đóng góp để xây dựng. Tôi luôn tin tưởng vào con người. Cứ việc nghiên cứu khoa học nhưng không được làm hại đến đời sống xã hội là đương nhiên.
- Cố gắng hiểu huyền bí một cách khách quan có nghĩa là cố gắng hiểu huyền bí một cách khoa học, tức là Trung tâm này phải cố gắng hoàn thiện tính khoa học của mình. - Sự chưa khoa học là một khuyết điểm cần phải sửa. Khuyết điểm đó có thể gây hại cho xã hội. Tôi đấu tranh để tiêu diệt cái khuyết điểm đó chứ không phải đấu tranh để tiêu diệt trung tâm này. Tôi đã nhận định sự ra đời của trung tâm là cần thiết và có ý nghĩa lớn lao. Thực tế quan điểm này xuất phát từ nhân sinh quan của tôi xây dựng từ Triết Phật là : tiêu diệt cái xấu của con người chứ không tiêu diệt con người. Và cái xấu đó là cái gì thì tôi cũng đã trình bày nhiều rồi.
- Tôi dự đoán :Khi nghiên cứu một cách hết sức khoa học TTNCTNCN hoạt động sẽ có kết luận là " không thể nghiên cứu Thâm linh bằng khoa học vật thể" khi đó kết luận này mới đáng tin. Như vậy cũng có ý nghĩa lớn lao đấy.
2/ Tôi thấy thầy giáo chưa đọc kỹ và hiểu ý tôi một cách logic. Hoàn toàn không hiểu tôi rồi thầy lại suy nghĩ liên hệ suy luận rộng ra theo ý thầy cho nên tôi thấy quá xa lạ với tôi. THẦY GIÁO CHƯA HIỂU TRIẾT PHẬT LÀ MỘT KHOA HỌC BAO TRÙM MỌI NGÀNH KHOA HỌC KHÁC. Thầy giáo cũng không biết được là có nhiều thư mời tôi tham gia ý kiến giải thích hiện tượng ngoại cảm và đánh giá bài của sư Thích Thông Lạc nhưng tôi đã trả lời rằng TÔI THẬT SỰ CHƯA CÓ ĐỦ TRÌNH ĐỘ ĐỂ TRÌNH BÀY CHO NGƯỜI KHÁC HIỂU VÀ NGƯỜI KHÁC CŨNG KHÔNG CÓ TRÌNH ĐỘ ĐỂ MÀ HIỂU.
Tôi đã nói với họ rằng "rồi bạn sẽ thấy, lời giải thích rất khoa học của nhà sư sẽ bị cho là duy tâm, hoang đường, tôi sẽ cố gắng gợi ý cho mọi người hiểu nhà sư nhưng rất khó thành công". Tôi cũng đã dự đoán sẽ có nhiều tác phẩm như " Chúng ta là ai", nhưng tôi không tham gia ý kiến nữa. NGAY CẢ GIÁO LÝ NHÀ PHẬT KHOA HỌC ĐẾN MỨC THU PHỤC NHỮNG NHÀ KHOA HỌC HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI MÀ NGƯỜI TA CÒN KHÔNG THÈM NGHIÊN CỨU ĐỂ HIỂU MỘT CÁCH NGHIÊM TÚC thì Đạo trường không là cái gì cả. Thầy giáo và nhiều người đâu có hiểu rằng ĐỨC PHẬT LÀ MỘT NHÀ KHOA HỌC ĐỒNG THỜI LÀ NHÀ CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI, HOÀN TOÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT GIÁO CHỦ, PHẬT KHÔNG THÍCH TRIẾT HỌC CỦA MÌNH BIẾN THÀNH TÔN GIÁO. Các nhà sư khác thì khuyên tôi rằng " Những người có thiện ý học hỏi thì người ta đã tự giác đi tìm những nhà sư và chùa chân chính, Bác sĩ không nên tốn thời gian ở những nơi không biết trân trọng, PHẬT PHÁP LÀ QUÝ BÁU KHÔNG NÊN CHO BỪA". Thầy giáo không biết là tôi đến với đạo Phật không phải là đến để cho các nhà Sư lãnh đạo mình, mà là đến đó để cùng các nhà sư và Phật tử học tập, tự phê bình, và phê bình lẫn nhau hướng tới một lối sống khoa học và nhân văn. Tôi ngợi ca Triết Phật là để gợi ý mọi người chưa biết hãy biết tính khoa học cao siêu của nó chứ hoàn toàn không có mục đích truyền giáo , đối với những người đã biết thì sự ngợi ca này là thừa.
3/ Tôi thấy lạ rằng:
- Nhiều nhà khoa học Việt nam chưa có tinh thần và tác phong khoa học thực thụ. Họ luôn né tránh phản biện. Họ cứ cho công trình của mình đăng thoải mái nhưng không phản hồi những ý kiến đóng góp.
- Việc người nông dân vùng xâu vùng xa ở VN dám nghĩ và dám tốn để chế tạo máy bay là một điều khâm phục đáng để học hỏi không chỉ cho riêng tôi mà còn nhiều người là thầy của tôi. Nhưng ở VN lại đánh giá theo một hướng hoàn toàn khác.
- "Trước một ý kiến phản biện rất gay gắt... Anh Đạo Trường đã không thể bắt bẻ được, chỉ biết "Hoan hô", nhưng vẫn một mực cho rằng Phật giáo là một tôn giáo siêu việt". Quái lạ thật! ở VN mình hình như cứ gay gắt là đúng? Đọc ý kiến người khác nhưng không hiểu mà cứ bình luận( xin thầy giáo đọc kỹ lại lời bình của tôi với ý kiến đó, ngẫm lại tại sao tôi dùng từ "hoan hô" đó). Thầy giáo cũng không để ý là tôi có sự phân biệt sâu sắc giữa hai từ đạo Phật và triết Phật.
- "Theo như anh Đạo Trường, người Việt, và nhân loại nói chung, không cần học hành, nghiên cứu gì nữa cả, chỉ cần nghiên cứu Phật giáo là đủ, quá đủ?" ý tưởng này hoàn toàn không phải của tôi, xin thầy giáo chứng minh đã trích dẫn từ đâu. Nếu thầy giáo không chứng minh được thì đó là suy nghĩ và suy luận của thầy giáo. Mà nếu đó là suy nghĩ của thầy giáo thì tôi không cần phải trả lời. Nhưng ở đây tôi có ý kiến đóng góp cho những người lãnh đạo ( chứ không phải cho thầy giáo) là xin các quý vị tránh thói quen dùng ý mình chụp mũ người khác.
- TTNCTNCN chưa khoa học, chứ không phải là không khoa học. Trung tâm này sẽ dần có khoa học vì tôi tin mọi người của trung tâm có tấm lòng và nhiệt tình trong sáng đồng thời mọi người chúng ta ai cũng có lòng đấu tranh đóng góp để xây dựng. Tôi luôn tin tưởng vào con người. Cứ việc nghiên cứu khoa học nhưng không được làm hại đến đời sống xã hội là đương nhiên.
- Cố gắng hiểu huyền bí một cách khách quan có nghĩa là cố gắng hiểu huyền bí một cách khoa học, tức là Trung tâm này phải cố gắng hoàn thiện tính khoa học của mình. - Sự chưa khoa học là một khuyết điểm cần phải sửa. Khuyết điểm đó có thể gây hại cho xã hội. Tôi đấu tranh để tiêu diệt cái khuyết điểm đó chứ không phải đấu tranh để tiêu diệt trung tâm này. Tôi đã nhận định sự ra đời của trung tâm là cần thiết và có ý nghĩa lớn lao. Thực tế quan điểm này xuất phát từ nhân sinh quan của tôi xây dựng từ Triết Phật là : tiêu diệt cái xấu của con người chứ không tiêu diệt con người. Và cái xấu đó là cái gì thì tôi cũng đã trình bày nhiều rồi.
- Tôi dự đoán :Khi nghiên cứu một cách hết sức khoa học TTNCTNCN hoạt động sẽ có kết luận là " không thể nghiên cứu Thâm linh bằng khoa học vật thể" khi đó kết luận này mới đáng tin. Như vậy cũng có ý nghĩa lớn lao đấy.
2/ Tôi thấy thầy giáo chưa đọc kỹ và hiểu ý tôi một cách logic. Hoàn toàn không hiểu tôi rồi thầy lại suy nghĩ liên hệ suy luận rộng ra theo ý thầy cho nên tôi thấy quá xa lạ với tôi. THẦY GIÁO CHƯA HIỂU TRIẾT PHẬT LÀ MỘT KHOA HỌC BAO TRÙM MỌI NGÀNH KHOA HỌC KHÁC. Thầy giáo cũng không biết được là có nhiều thư mời tôi tham gia ý kiến giải thích hiện tượng ngoại cảm và đánh giá bài của sư Thích Thông Lạc nhưng tôi đã trả lời rằng TÔI THẬT SỰ CHƯA CÓ ĐỦ TRÌNH ĐỘ ĐỂ TRÌNH BÀY CHO NGƯỜI KHÁC HIỂU VÀ NGƯỜI KHÁC CŨNG KHÔNG CÓ TRÌNH ĐỘ ĐỂ MÀ HIỂU.
Tôi đã nói với họ rằng "rồi bạn sẽ thấy, lời giải thích rất khoa học của nhà sư sẽ bị cho là duy tâm, hoang đường, tôi sẽ cố gắng gợi ý cho mọi người hiểu nhà sư nhưng rất khó thành công". Tôi cũng đã dự đoán sẽ có nhiều tác phẩm như " Chúng ta là ai", nhưng tôi không tham gia ý kiến nữa. NGAY CẢ GIÁO LÝ NHÀ PHẬT KHOA HỌC ĐẾN MỨC THU PHỤC NHỮNG NHÀ KHOA HỌC HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI MÀ NGƯỜI TA CÒN KHÔNG THÈM NGHIÊN CỨU ĐỂ HIỂU MỘT CÁCH NGHIÊM TÚC thì Đạo trường không là cái gì cả. Thầy giáo và nhiều người đâu có hiểu rằng ĐỨC PHẬT LÀ MỘT NHÀ KHOA HỌC ĐỒNG THỜI LÀ NHÀ CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI, HOÀN TOÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT GIÁO CHỦ, PHẬT KHÔNG THÍCH TRIẾT HỌC CỦA MÌNH BIẾN THÀNH TÔN GIÁO. Các nhà sư khác thì khuyên tôi rằng " Những người có thiện ý học hỏi thì người ta đã tự giác đi tìm những nhà sư và chùa chân chính, Bác sĩ không nên tốn thời gian ở những nơi không biết trân trọng, PHẬT PHÁP LÀ QUÝ BÁU KHÔNG NÊN CHO BỪA". Thầy giáo không biết là tôi đến với đạo Phật không phải là đến để cho các nhà Sư lãnh đạo mình, mà là đến đó để cùng các nhà sư và Phật tử học tập, tự phê bình, và phê bình lẫn nhau hướng tới một lối sống khoa học và nhân văn. Tôi ngợi ca Triết Phật là để gợi ý mọi người chưa biết hãy biết tính khoa học cao siêu của nó chứ hoàn toàn không có mục đích truyền giáo , đối với những người đã biết thì sự ngợi ca này là thừa.
3/ Tôi thấy lạ rằng:
- Nhiều nhà khoa học Việt nam chưa có tinh thần và tác phong khoa học thực thụ. Họ luôn né tránh phản biện. Họ cứ cho công trình của mình đăng thoải mái nhưng không phản hồi những ý kiến đóng góp.
- Việc người nông dân vùng xâu vùng xa ở VN dám nghĩ và dám tốn để chế tạo máy bay là một điều khâm phục đáng để học hỏi không chỉ cho riêng tôi mà còn nhiều người là thầy của tôi. Nhưng ở VN lại đánh giá theo một hướng hoàn toàn khác.
- "Trước một ý kiến phản biện rất gay gắt... Anh Đạo Trường đã không thể bắt bẻ được, chỉ biết "Hoan hô", nhưng vẫn một mực cho rằng Phật giáo là một tôn giáo siêu việt". Quái lạ thật! ở VN mình hình như cứ gay gắt là đúng? Đọc ý kiến người khác nhưng không hiểu mà cứ bình luận( xin thầy giáo đọc kỹ lại lời bình của tôi với ý kiến đó, ngẫm lại tại sao tôi dùng từ "hoan hô" đó). Thầy giáo cũng không để ý là tôi có sự phân biệt sâu sắc giữa hai từ đạo Phật và triết Phật.
- "Theo như anh Đạo Trường, người Việt, và nhân loại nói chung, không cần học hành, nghiên cứu gì nữa cả, chỉ cần nghiên cứu Phật giáo là đủ, quá đủ?" ý tưởng này hoàn toàn không phải của tôi, xin thầy giáo chứng minh đã trích dẫn từ đâu. Nếu thầy giáo không chứng minh được thì đó là suy nghĩ và suy luận của thầy giáo. Mà nếu đó là suy nghĩ của thầy giáo thì tôi không cần phải trả lời. Nhưng ở đây tôi có ý kiến đóng góp cho những người lãnh đạo ( chứ không phải cho thầy giáo) là xin các quý vị tránh thói quen dùng ý mình chụp mũ người khác.
Không nên trao đổi như thế nữa!
Thứ bảy, 16/05/2009 09:30' AM
-
Chúng Tớ Học
minhbui@...
Tôi thành thực mong bạn đọc
Trần Quang Đại không nên trao đổi nữa. Khi Đạo Trường đã viết: "Triết
Phật là một khoa học bao trùm mọi ngành khoa học khác", thì theo tôi,
Trần Quang Đại và những người cùng quan điểm không nên trao đổi nữa, vì
chỗ đứng của hai bên hòan tòan khác nhau.
Tôi sẽ không nói rằng, Đạo Trường không phân biệt được tôn giáo và khoa học, vì qua sự phê phán khoa học, có lẽ ông chưa tìm hiểu xem khoa học là gì. Có thể có một số nét tương đồng, nhưng tôn giáo và khoa học rất khác nhau. Chẳng hạn tôn giáo dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ. Giáo lý tôn giáo là một hệ thống logic tương đối khép kín, ít khi chấp nhận sự cải biên (thậm chí trong một số tôn giáo, sự cải biên còn dẫn tới đổ máu!). Ngược lại, khoa học là một hệ thống mở luôn luôn được phủ định (biện chứng). Đó là lý do khoa học ngày nay khác xa khoa học 1000 năm trước; trong khi các giáo lý rất ít thay đổi trong suốt tiến trình lịch sử. Các bậc trí giả có thể đưa ra nhiều đặc trưng khác của tôn giáo và khoa học.
Tôi tin Đạo Trường sẽ không chấp nhận cách lập luận trên và vẫn tiếp tục xem giáo lý Phật giáo là khoa học bao trùm mọi khoa học. Thật may mắn quá, tôi có một số câu hỏi về bản chất vũ trụ mà chưa thấy các khoa học giải đáp được.
Vậy tôi mong Đạo Trường dùng Triết Phật giải đáp giúp:
1) Bản chất tâm trí là gì? Mối tương quan giữa bộ não và tâm trí là như thế nào? Ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào? Vô thức phân tâm học và vô thức nhận thức học giống và khác nhau như thế nào?
2) Bản chất giấc mơ là gì? Tại sao chúng ta nằm mơ nhiều lần hàng đêm mà ít khi nhớ khi tỉnh giấc?
3) Big Bang là khởi thủy của vũ trụ khỏang 14 tỉ năm trước, vậy cái gì sinh ra Big Bang?
4) Không - thời gian là gì? Tại sao vũ trụ đối xứng trong không gian mà không đối xứng trong thời gian?
5) Năng lượng tối là gì mà lại sinh ra lực đẩy làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh?
6) Sét hòn là gì? Tại sao nó lúc ẩn lúc hiện?
7) Tế bào đầu tiên trên Trái Đất được sinh ra như thế nào? Trong ba lọai phân tử sinh học căn bản của sự sống, lọai nào có trước, ADN, ARN hay protein? (Bài tóan con gà và quả trứng)
8) Máy tính lượng tử có ưu việt thực sự hay không? Chế tạo nó như thế nào?
9) Bản chất thực sự của cơ học lượng tử là gì?
10) Tác dụng của "tinh thần trên vật chất" (chẳng hạn dùng ý nghĩ "bẻ cong thìa") có thật hay không? Nếu có thì giải thích như thế nào? Nếu không, tại sao mọi người lại "mê" nó và các khả năng dị thường khác như vậy?
11) Tại sao tóan học lại mô tả thế giới chính xác một cách kì lạ như vậy?
....
Trên đây là những câu hỏi mà khoa học đang cố công tìm hiểu nhưng chưa trả lời được hay chưa trả lời thỏa đáng. Rất mong Đạo Trường và các bậc thức giả khác giải đáp giúp.
Xin chân thành cảm tạ.
(Đỗ Kiên Cường)
Tôi sẽ không nói rằng, Đạo Trường không phân biệt được tôn giáo và khoa học, vì qua sự phê phán khoa học, có lẽ ông chưa tìm hiểu xem khoa học là gì. Có thể có một số nét tương đồng, nhưng tôn giáo và khoa học rất khác nhau. Chẳng hạn tôn giáo dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ. Giáo lý tôn giáo là một hệ thống logic tương đối khép kín, ít khi chấp nhận sự cải biên (thậm chí trong một số tôn giáo, sự cải biên còn dẫn tới đổ máu!). Ngược lại, khoa học là một hệ thống mở luôn luôn được phủ định (biện chứng). Đó là lý do khoa học ngày nay khác xa khoa học 1000 năm trước; trong khi các giáo lý rất ít thay đổi trong suốt tiến trình lịch sử. Các bậc trí giả có thể đưa ra nhiều đặc trưng khác của tôn giáo và khoa học.
Tôi tin Đạo Trường sẽ không chấp nhận cách lập luận trên và vẫn tiếp tục xem giáo lý Phật giáo là khoa học bao trùm mọi khoa học. Thật may mắn quá, tôi có một số câu hỏi về bản chất vũ trụ mà chưa thấy các khoa học giải đáp được.
Vậy tôi mong Đạo Trường dùng Triết Phật giải đáp giúp:
1) Bản chất tâm trí là gì? Mối tương quan giữa bộ não và tâm trí là như thế nào? Ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào? Vô thức phân tâm học và vô thức nhận thức học giống và khác nhau như thế nào?
2) Bản chất giấc mơ là gì? Tại sao chúng ta nằm mơ nhiều lần hàng đêm mà ít khi nhớ khi tỉnh giấc?
3) Big Bang là khởi thủy của vũ trụ khỏang 14 tỉ năm trước, vậy cái gì sinh ra Big Bang?
4) Không - thời gian là gì? Tại sao vũ trụ đối xứng trong không gian mà không đối xứng trong thời gian?
5) Năng lượng tối là gì mà lại sinh ra lực đẩy làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh?
6) Sét hòn là gì? Tại sao nó lúc ẩn lúc hiện?
7) Tế bào đầu tiên trên Trái Đất được sinh ra như thế nào? Trong ba lọai phân tử sinh học căn bản của sự sống, lọai nào có trước, ADN, ARN hay protein? (Bài tóan con gà và quả trứng)
8) Máy tính lượng tử có ưu việt thực sự hay không? Chế tạo nó như thế nào?
9) Bản chất thực sự của cơ học lượng tử là gì?
10) Tác dụng của "tinh thần trên vật chất" (chẳng hạn dùng ý nghĩ "bẻ cong thìa") có thật hay không? Nếu có thì giải thích như thế nào? Nếu không, tại sao mọi người lại "mê" nó và các khả năng dị thường khác như vậy?
11) Tại sao tóan học lại mô tả thế giới chính xác một cách kì lạ như vậy?
....
Trên đây là những câu hỏi mà khoa học đang cố công tìm hiểu nhưng chưa trả lời được hay chưa trả lời thỏa đáng. Rất mong Đạo Trường và các bậc thức giả khác giải đáp giúp.
Xin chân thành cảm tạ.
(Đỗ Kiên Cường)
Phải tranh luận tiếp chứ?
Thứ bảy, 16/05/2009 05:51' PM
-
Huy Minh
thminh07@...
Chúng ta đang sống trong cùng
một Vũ trụ, đang cùng quan sát Vũ trụ và vạn vật xung quanh, vì vậy có
thể nói ngay được rằng: trong chúng ta cũng như trong vạn vật đều phải
có một cái gì đó rất chung, rất giống nhau và cũng rất giống bản thể của
vũ trụ này, và do đó vạn vật trong vũ trụ đều có liên quan đến nhau, ít
hoặc nhiều, nhìn thấy được hoặc chưa nhìn thấy được, chúng ta cũng vậy,
đều có liên quan và ảnh hưởng đến nhau. Thí nghiệm của các nhà khoa học
về tính 2 mặt (sóng và hạt) của proton còn cho thấy dường như những hạt
proton nhỏ bé này cũng có “tính khí”!.
Đức Phật nói: "Một con cá quẫy đuôi cũng chấn động tam thiên đại thiên thế giới"; hoặc chúng ta đã được nghe về hiệu ứng cánh bướm: “Một cánh bướm vỗ ở Bắc Kinh cũng có thể gây nên trận cuồng phong ở Trung Mỹ”; nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận nói: "Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn đến toàn thể vũ trụ".
Chính vì tính liên thông của vạn vật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, nên người trí giả có thể nhìn một hiện tượng dù rất nhỏ, có thể đoán ra chuyện đại sự. Bởi vậy một quẻ bói dịch nhỏ nhoi chỉ có 6 hào, mà Khổng Minh (với Mã Tiền Khoá), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (với Thái Ất Thần Kinh),… có thể tiên đoán được sự vật, hiện tượng sau trước hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm. Nhưng đối với kẻ trí thiển thì việc lớn không thấy, chăm chăm tiểu tiết, vạch lá tìm sâu, tầm chương trích cú. Tỷ như Chu Du, thân làm đến Đô đốc mà thấy Khổng Minh cầu gió Đông Nam, tưởng là thần thánh. Rồi uất ức hộc máu mà chết chỉ vì trí thiển mà thôi.
Thời gian gần đây, qua các diễn đàn trên chungta.com, chúng ta có thể nhận thấy được trình độ của các tác giả cũng như các luận giả. Việc đánh giá này do từng người cảm nhận, có thể khác nhau nhiều, mỗi người nên cách nhìn khách quan, cầu thị, hiểu biết và học hỏi. Cá nhân tôi ủng hộ quan điểm rất kiên định, rõ ràng và trí tuệ của bác Đạo Trường, khâm phục bác bởi sự hào phóng sẻ chia và cả sự nhiệt tình trong đó. Bác thường dẫn Triết Phật để minh hoạ hoặc giải thích bởi Triết Phật là một hệ thống lý luận cao siêu mà lại rất gần gũi với dân Á Đông. Tuy nhiên, các giáo lý khác cũng có hệ thống lý luận cao siêu không kém Triết Phật, vậy mà CHÂN LÝ, MINH TRIẾT, VŨ TRỤ chỉ là MỘT thế nên cũng đã có nhiều trường phái đi tìm một ĐẠI ĐẠO chung cho loài người, bởi loài người biết rằng “Vạn giáo Nhất lý” nhưng chưa tìm ra một hệ thống giáo lý đầy đủ nào để thu hạp, dung hoà được các trường phái tôn giáo lớn hiện nay. Chúng ta có thể thấy tư tưởng này khi nghiên cứu về Thông thiên học hoặc giáo lý của Đạo Cao Đài.
Nhìn chung, những luận thuyết trung dung này quan niệm khoa học là phương tiện, là công cụ của loài người còn tôn giáo là ngọn cờ đạo đức dẫn dắt con người, không có mâu thuẫn hay sự loại trừ nhau giữa tôn giáo và khoa học, cả 2 cùng đi về một đích là CHÂN LÝ, nhưng ở 2 phía khác nhau: khoa học tiến dần. phát triển dần còn tôn giáo (chân chính) sinh ra đã bao trùm tất cả, trong đó có khoa học. Khoa học cần sự tiến bộ, sự khám phá vươn lên nhưng tôn giáo sinh ra đã đầy đủ, đã là MINH TRIẾT nên ít thấy thay đổi thay sự tiến bộ, chính sự thay đổi do ý thức chủ quan, vụ lợi của con người đã làm cho tôn giáo nhiều nơi bị lợi dụng, trở thành công cụ của chính giới và phản động đầy màu sắc mê tín dị đoan hay sự cực đoan, cuồng tín.
Với tình cảm yêu mến Đạo Trường, tôi sẽ cùng giúp bác trả lời những câu hỏi của Minh Bùi hay Đỗ Kiên Cường trong comment tới./.
Đức Phật nói: "Một con cá quẫy đuôi cũng chấn động tam thiên đại thiên thế giới"; hoặc chúng ta đã được nghe về hiệu ứng cánh bướm: “Một cánh bướm vỗ ở Bắc Kinh cũng có thể gây nên trận cuồng phong ở Trung Mỹ”; nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận nói: "Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn đến toàn thể vũ trụ".
Chính vì tính liên thông của vạn vật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, nên người trí giả có thể nhìn một hiện tượng dù rất nhỏ, có thể đoán ra chuyện đại sự. Bởi vậy một quẻ bói dịch nhỏ nhoi chỉ có 6 hào, mà Khổng Minh (với Mã Tiền Khoá), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (với Thái Ất Thần Kinh),… có thể tiên đoán được sự vật, hiện tượng sau trước hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm. Nhưng đối với kẻ trí thiển thì việc lớn không thấy, chăm chăm tiểu tiết, vạch lá tìm sâu, tầm chương trích cú. Tỷ như Chu Du, thân làm đến Đô đốc mà thấy Khổng Minh cầu gió Đông Nam, tưởng là thần thánh. Rồi uất ức hộc máu mà chết chỉ vì trí thiển mà thôi.
Thời gian gần đây, qua các diễn đàn trên chungta.com, chúng ta có thể nhận thấy được trình độ của các tác giả cũng như các luận giả. Việc đánh giá này do từng người cảm nhận, có thể khác nhau nhiều, mỗi người nên cách nhìn khách quan, cầu thị, hiểu biết và học hỏi. Cá nhân tôi ủng hộ quan điểm rất kiên định, rõ ràng và trí tuệ của bác Đạo Trường, khâm phục bác bởi sự hào phóng sẻ chia và cả sự nhiệt tình trong đó. Bác thường dẫn Triết Phật để minh hoạ hoặc giải thích bởi Triết Phật là một hệ thống lý luận cao siêu mà lại rất gần gũi với dân Á Đông. Tuy nhiên, các giáo lý khác cũng có hệ thống lý luận cao siêu không kém Triết Phật, vậy mà CHÂN LÝ, MINH TRIẾT, VŨ TRỤ chỉ là MỘT thế nên cũng đã có nhiều trường phái đi tìm một ĐẠI ĐẠO chung cho loài người, bởi loài người biết rằng “Vạn giáo Nhất lý” nhưng chưa tìm ra một hệ thống giáo lý đầy đủ nào để thu hạp, dung hoà được các trường phái tôn giáo lớn hiện nay. Chúng ta có thể thấy tư tưởng này khi nghiên cứu về Thông thiên học hoặc giáo lý của Đạo Cao Đài.
Nhìn chung, những luận thuyết trung dung này quan niệm khoa học là phương tiện, là công cụ của loài người còn tôn giáo là ngọn cờ đạo đức dẫn dắt con người, không có mâu thuẫn hay sự loại trừ nhau giữa tôn giáo và khoa học, cả 2 cùng đi về một đích là CHÂN LÝ, nhưng ở 2 phía khác nhau: khoa học tiến dần. phát triển dần còn tôn giáo (chân chính) sinh ra đã bao trùm tất cả, trong đó có khoa học. Khoa học cần sự tiến bộ, sự khám phá vươn lên nhưng tôn giáo sinh ra đã đầy đủ, đã là MINH TRIẾT nên ít thấy thay đổi thay sự tiến bộ, chính sự thay đổi do ý thức chủ quan, vụ lợi của con người đã làm cho tôn giáo nhiều nơi bị lợi dụng, trở thành công cụ của chính giới và phản động đầy màu sắc mê tín dị đoan hay sự cực đoan, cuồng tín.
Với tình cảm yêu mến Đạo Trường, tôi sẽ cùng giúp bác trả lời những câu hỏi của Minh Bùi hay Đỗ Kiên Cường trong comment tới./.
Trả lời các câu hỏi
Thứ bảy, 16/05/2009 05:54' PM
-
Huy Minh
thminh07@...
Huy Minh xin được đem cái “lãng mạn” khoa học và tôn giáo của bản thân để trả lời những câu hỏi của Minh Bùi, cốt chỉ góp vui:
1) Bản chất tâm trí là gì? Mối tương quan giữa bộ não và tâm trí là như thế nào? Ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào? Vô thức phân tâm học và vô thức nhận thức học giống và khác nhau như thế nào?
Vũ trụ là một siêu máy tính khổng lồ, con người cũng có thể được hình dung giống như một chiếc máy tính (dĩ nhiên là tinh vi hơn bất cứ chiếc PC nào trên trái đất), có phần cứng, phần mềm điều hành (Windows, OS,..) và phần mềm ứng dụng tương ứng với con người là: thể xác, thể vía và thể trí sự hoạt động hài hoà giữa các thể này tạo nên một cơ thể khoẻ mạnh và ngược lại. Như vậy, bản chất của tâm trí là một chương trình máy tính, một phần mềm (software) chạy trong cơ thể chúng ta từ lúc sinh ra tới lúc chết đi. Tâm trí hoạt động nhờ có bộ não (giống như bộ nhớ của máy tính: đĩa cứng – HDD hoặc RAM), là các quá trình thu nhận, ghi nhớ, vào/ra và xử lý thông tin dữ liệu thông qua các bộ phận ngũ quan (tai, mắt, chân tay,..).
Đi sâu nghiên cứu về khoa học máy tính chúng ta sẽ thấy một sự tương đồng hoàn toàn và có thể hình dung, quan sát, mô phỏng được ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào. Qua đó sẽ có những giải đáp thoả đáng về các vấn đề phân tâm học. Chính từ lâu, con người đang nỗ lực nghiên cứu và đạt được những thành tích to lớn về trí tuệ nhân tạo, nhằm mục đích tạo ra những robôt thế hệ mới, thông minh như con người!. Khi đó, rõ ràng con người đã là Thượng Đế, là Đấng Sáng tạo vĩ đại.
Một điều quan trọng nên nhớ là “chiếc máy tính” của ta không hoạt động độc lập, đơn lẻ mà có “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ, chịu sự chi phối nhất định của vũ trụ có cái ta nhận biết được nhưng có nhiều cái chưa nhận biết được.
2) Bản chất giấc mơ là gì? Tại sao chúng ta nằm mơ nhiều lần hàng đêm mà ít khi nhớ khi tỉnh giấc?
Chúng ta mơ hằng đêm, có nhiều kiểu mơ khác nhau, giấc mơ như những đoạn phim hay một hồi, một cảnh dở dang của một vở kịch. Có rất nhiều chương trình, nhiều phần mềm hoạt động trong cơ thể chúng ta, mỗi cơ thể lại có cơ địa khác nhau, đôi lúc không hoàn hảo, mặt khác chúng ta lại “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ, vì vậy, giấc mơ có thể là một hình thức “truy xuất dữ liệu”, “tái tạo hình ảnh”, một software nào đó trong ta bị kích hoạt và hoạt động trong lúc cơ thể đang ở trạng thái ngủ “sleeping”, việc xử lý thông tin dữ liệu có thể xảy ra ở vùng đặc biệt nào đó trong não (giống như RAM, tốc độ đọc, ghi cao hơn HDD nhiều nhưng khi mất điện là dữ liệu trên RAM không còn). Điều này có thể giải thích được rằng trong giấc mơ, mặc dù thời gian rất ngắn (vài giây, vài phút) nhưng chúng ta thấy được cả một núi sự kiện, hiện tượng trong đó (như một cuộn phim dài), và cũng vì vậy, khi tỉnh giấc ít khi chúng ta nhớ được rằng đã mơ thấy gì (dĩ nhiên, có nhiều giấc mơ chúng ta vẫn nhớ rõ).
3) Big Bang là khởi thủy của vũ trụ khỏang 14 tỉ năm trước, vậy cái gì sinh ra Big Bang?
Big Bang được thừa nhận là có thật, là khởi thuỷ của vũ trụ (của chúng ta). Nhưng thật nực cười và ngây thơ nếu nghĩ rằng đây là một vụ nổ vu vơ, được chăng hay chớ, không có mục đích, không được AI ĐÓ “lập trình” trước. Chính Newton đã nói, vũ trụ là một cỗ máy hoàn hảo, tinh vi, phải có ai đó, thời điểm nào đó ấn nút để khởi động cỗ máy này, và năng lượng của nguồn lực để “khởi động” cỗ máy phải vô cùng lớn đê tạo nên cả vũ trụ.
Để dễ hình dung (mà cũng có thể là thật), chúng ta hãy coi Big Bang như một sự nảy mầm của một hạt giống, trong hạt giống này, công trình về vũ trụ đã được thiết kế, được mã hoá, được lập trình sẵn. Cũng cần phải thừa nhận thuyết “đa vũ trụ”, vũ trụ của chúng ta không phải là duy nhất, còn có nhiều, nhiều đến vô tận các cũ trụ khác nữa.
Thời điểm big bang là thời điểm hội đủ điều kiện về mọi mặt cần thiết cho một sự nảy mầm (giống như độ ẩm, nhiệt độ, địa điểm) và một tiếng nổ long trời lở đất xảy ra làm cái vỏ cứng như đá của hạt giống vũ trụ này nứt vỡ, một mầm non của CÂY VŨ TRỤ nhú ra, đẹp đẽ, kiêu sa hơn bất cứ cái mầm nào trên trái đất, và nguồn năng lượng vô tận của các vũ trụ khác soi rọi làm cho cái mầm nhỏ nhoi này lớn nhanh như thổi, và hơn 13,7 tỷ năm trôi qua với biết bao phong ba bão táp, Cây vũ trụ vẫn vươn mình lớn lên trở thành một cái cây khổng lồ với cành, nhánh vô hình đối với con người nhưng hoa, lá, quả là các thiên hà, các tinh vân, các hệ sao, ngôi sao,… lan toả khắp vũ trụ. Các quan sát thiên văn cho thấy, vũ trụ vẫn đang nở ra, tản xa ra với tốc độ ngày càng lớn.
Ở đây, chúng ta cũng cần phải lãng mạn và có óc tưởng tượng một chút, Cây vũ trụ là một loài cây đặc biệt, không giống hoàn toàn như cây cối thông thường trên trái đất. Dĩ nhiên, các loài cây vũ trụ chắc cũng hết sức phong phú, có cây mới lớn, có cây cổ thụ, có cây thân gỗ, có cái rễ chùm, lá kim,…
Về kích thước của cây, ta cũng thấy được qua hình ảnh một hạt cây (xà cừ chẳng hạn) bé bằng móng tay, nhưng sau chỉ 100 năm, cây xà cừ ở điều kiện mọc trong thiên nhiên, không bị gẫy đổ sẽ to lớn như thế nào. Ngay như cơ thể chúng ta, lúc được thụ tinh chỉ là một tế bào trứng nhỏ bé đến vô hình, vậy mà sau 20 năm đã thành một chàng trai, cô gái cao lớn như thế nào. Thế mà Cây vũ trụ của chúng ta đã trải qua 13,7 tỷ năm, một sự sống, một sự phát triển kéo dài gần 14 tỷ năm, thật khó có thể tưởng tượng nổi, bởi vậy, kích thước khổng lồ của Vũ trụ là vì vậy.
4) Không - thời gian là gì? Tại sao vũ trụ đối xứng trong không gian mà không đối xứng trong thời gian?
Không - thời gian là những chiều của Vũ trụ, sự đối xứng trong không gian chỉ là cảm giác, được phản ảnh qua các tấm gương, thực ra không hoàn toàn đối xứng.
Khái niệm trục thời gian đã giới hạn thời gian chỉ như một đường thẳng, trong khi không phải như vậy, thời gian không chỉ là quá khứ, hiện tại và tương lai. đối với con người ta có thể thấy ngay rằng có các loại thời gian song hành tồn tại khác nhau mà chúng ta thấy sự bất đối xứng:
- Thời gian khoa học (ngày, giờ, phút, giây,…);
- Thời gian tâm lý (thời gian chờ đợi bao giừ cũng lâu);
- Thời gian sinh lý (đồng hồ sinh học trong cơ thể) và
- Thời gian Tâm linh (chuyện Từ Thức gặp tiên, 1 ngày trên trời bằng trăm năm dưới đất);
5) Năng lượng tối là gì mà lại sinh ra lực đẩy làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh?
Vũ trụ có thể có nhiều nguồn năng lượng mà chúng ta chưa được biết, năng lượng tối - thứ năng lượng bí ẩn là một trong số đó. Trong công trình tạo dựng vũ trụ chắc chắn Tạo hoá phải thiết kế nguồn năng lượng để đảm bảo cho sự phát triển của Cây vũ trụ. Sự giãn nở của Vũ trụ được hình dung như sự lớn lên của một cái cây.
6) Sét hòn là gì? Tại sao nó lúc ẩn lúc hiện?
Khi đã coi cả Vũ trụ như là một sinh thể, một cái cây thì chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ đến việc có nhiều sinh thể khác mà chúng ta chưa được biết đến. Sinh thể không đơn thuẩn chỉ là cây, con, thực vật, động vật mà còn có thể là những sự vật, hiện tượng được “lập trình”, Sét hòn có thể là một sinh thể như vậy lúc ẩn, lúc hiện, khó quan sát, nắm bắt được.
7) Tế bào đầu tiên trên Trái Đất được sinh ra như thế nào? Trong ba lọai phân tử sinh học căn bản của sự sống, lọai nào có trước, ADN, ARN hay protein? (Bài tóan con gà và quả trứng)
Giải thích về Big Bang như trên để nói rằng Vũ trụ khi mới sinh ra có thể bé bằng đầu kim. Chỉ có điều, trong cái đầu kim đó đã chứa một bản thiết kế được lập sẵn, được mã hoá, vô hình vô dạng. Do đó, AND, ARN hay protein chỉ là 3 cấu thành trong bản thiết kế của Tạo hoá, không cái nào có trước cái nào, chỉ có Tạo hoá là có trước tiên.
8) Máy tính lượng tử có ưu việt thực sự hay không? Chế tạo nó như thế nào?
Máy tính lượng tử là mong ước vĩ đại của ngành khoa học máy tính cũng như của cả loài người. Muốn chế tạo nó, hãy học hỏi thiên nhiên, hãy trở về với bản thể vũ trụ. Tại sao chỉ với 4 chất hoá học gọi là “các bazơ”, đó là Adénine (A), Cytosine (C), Guanine (G) và Thymine (T) vậy mà mọi cơ thể sống từ hạt mù tạt đến con người hiện đại đều được cấu thành bới sự sắp xếp, kết nối của 4 chất đó!.
9) Bản chất thực sự của cơ học lượng tử là gì?
Không có câu trả lời (giành cho các nhà vật lý lượng tử).
10) Tác dụng của "tinh thần trên vật chất" (chẳng hạn dùng ý nghĩ "bẻ cong thìa") có thật hay không? Nếu có thì giải thích như thế nào? Nếu không, tại sao mọi người lại "mê" nó và các khả năng dị thường khác như vậy?
Việc xây dựng Kim tự tháp Ai cập vẫn còn coi là bí ẩn nếu không thừa nhận rằng đã có một thời, loài người biết sử dụng năng lực tinh thần để xây dựng các đền đài, lăng mộ, sau đó dần dần bị mất đi năng lực đó. Thực ra, nếu không có năng lực tinh thần, con người không thể làm nên trò trống gì. Chẳng hạn, một viên gạch được làm ra cũng là kết quả của các hoạt động tinh thần con người kết hợp với hoạt động chân tay (làm đất, đóng khuôn, nung và vận chuyển). Một tác phẩm nghệ thuật hay một sản phẩm điện tử cũng đều thấm đẫm năng lực tinh thần của con người. Chúng ta và vạn vật cũng thấm đẫm năng lực tinh thần của Vũ trụ, của Đấng Sáng tạo, đó chính là cái gọi là “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”, bởi vậy chúng ta vẫn mê và mong muốn có được những khả năng dị thường khác - những khả năng của Trời để có thêm sức mạnh.
11) Tại sao tóan học lại mô tả thế giới chính xác một cách kì lạ như vậy?
Vũ trụ hay bất cứ cơ thể sống, sinh thể nào đều được điều khiển bởi một chương trình, một phần mềm tin học. Phần mềm là những câu lệnh (command) được sắp xếp theo một trật tự nghiêm ngặt. Trong mỗi phần mềm là các hàm, các hằng, các biến. Các hàm là các quy luật được định sẵn, các hằng là các giới hạn để kiểm soát mọi hoạt động của hàm và biến. Các biến thay đổi khi chương trình chạy, giá trị các biến được tính toán, tăng hay giảm và so sánh với các hằng để quyết đinh các động tác thực hiện tiếp theo. Các công thức toán học được sử dụng trong các phần mềm bởi vậy, đương nhiên toán học mô tả thế giới một cách chính xác.
11 câu hỏi trên rất thú vị và không dễ trả lời nếu không “viện dẫn đến cả vũ trụ”, mỗi câu là cả một công trình khoa học đồ sộ, không thể trả lời một cách quá dễ dàng, giản đơn như Huy Minh.
Tuy nhiên, chúng ta thảo luận vui là chính, học được thì tốt, đừng cay cú, đừng nóng, đừng vội phủ định, hãy suy nghĩ và hãy thật lãng mạn. Chúc mọi người vui vẻ./.
1) Bản chất tâm trí là gì? Mối tương quan giữa bộ não và tâm trí là như thế nào? Ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào? Vô thức phân tâm học và vô thức nhận thức học giống và khác nhau như thế nào?
Vũ trụ là một siêu máy tính khổng lồ, con người cũng có thể được hình dung giống như một chiếc máy tính (dĩ nhiên là tinh vi hơn bất cứ chiếc PC nào trên trái đất), có phần cứng, phần mềm điều hành (Windows, OS,..) và phần mềm ứng dụng tương ứng với con người là: thể xác, thể vía và thể trí sự hoạt động hài hoà giữa các thể này tạo nên một cơ thể khoẻ mạnh và ngược lại. Như vậy, bản chất của tâm trí là một chương trình máy tính, một phần mềm (software) chạy trong cơ thể chúng ta từ lúc sinh ra tới lúc chết đi. Tâm trí hoạt động nhờ có bộ não (giống như bộ nhớ của máy tính: đĩa cứng – HDD hoặc RAM), là các quá trình thu nhận, ghi nhớ, vào/ra và xử lý thông tin dữ liệu thông qua các bộ phận ngũ quan (tai, mắt, chân tay,..).
Đi sâu nghiên cứu về khoa học máy tính chúng ta sẽ thấy một sự tương đồng hoàn toàn và có thể hình dung, quan sát, mô phỏng được ý thức, vô thức và tiềm thức tương tác với nhau như thế nào. Qua đó sẽ có những giải đáp thoả đáng về các vấn đề phân tâm học. Chính từ lâu, con người đang nỗ lực nghiên cứu và đạt được những thành tích to lớn về trí tuệ nhân tạo, nhằm mục đích tạo ra những robôt thế hệ mới, thông minh như con người!. Khi đó, rõ ràng con người đã là Thượng Đế, là Đấng Sáng tạo vĩ đại.
Một điều quan trọng nên nhớ là “chiếc máy tính” của ta không hoạt động độc lập, đơn lẻ mà có “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ, chịu sự chi phối nhất định của vũ trụ có cái ta nhận biết được nhưng có nhiều cái chưa nhận biết được.
2) Bản chất giấc mơ là gì? Tại sao chúng ta nằm mơ nhiều lần hàng đêm mà ít khi nhớ khi tỉnh giấc?
Chúng ta mơ hằng đêm, có nhiều kiểu mơ khác nhau, giấc mơ như những đoạn phim hay một hồi, một cảnh dở dang của một vở kịch. Có rất nhiều chương trình, nhiều phần mềm hoạt động trong cơ thể chúng ta, mỗi cơ thể lại có cơ địa khác nhau, đôi lúc không hoàn hảo, mặt khác chúng ta lại “nối mạng” với siêu máy tính vũ trụ, vì vậy, giấc mơ có thể là một hình thức “truy xuất dữ liệu”, “tái tạo hình ảnh”, một software nào đó trong ta bị kích hoạt và hoạt động trong lúc cơ thể đang ở trạng thái ngủ “sleeping”, việc xử lý thông tin dữ liệu có thể xảy ra ở vùng đặc biệt nào đó trong não (giống như RAM, tốc độ đọc, ghi cao hơn HDD nhiều nhưng khi mất điện là dữ liệu trên RAM không còn). Điều này có thể giải thích được rằng trong giấc mơ, mặc dù thời gian rất ngắn (vài giây, vài phút) nhưng chúng ta thấy được cả một núi sự kiện, hiện tượng trong đó (như một cuộn phim dài), và cũng vì vậy, khi tỉnh giấc ít khi chúng ta nhớ được rằng đã mơ thấy gì (dĩ nhiên, có nhiều giấc mơ chúng ta vẫn nhớ rõ).
3) Big Bang là khởi thủy của vũ trụ khỏang 14 tỉ năm trước, vậy cái gì sinh ra Big Bang?
Big Bang được thừa nhận là có thật, là khởi thuỷ của vũ trụ (của chúng ta). Nhưng thật nực cười và ngây thơ nếu nghĩ rằng đây là một vụ nổ vu vơ, được chăng hay chớ, không có mục đích, không được AI ĐÓ “lập trình” trước. Chính Newton đã nói, vũ trụ là một cỗ máy hoàn hảo, tinh vi, phải có ai đó, thời điểm nào đó ấn nút để khởi động cỗ máy này, và năng lượng của nguồn lực để “khởi động” cỗ máy phải vô cùng lớn đê tạo nên cả vũ trụ.
Để dễ hình dung (mà cũng có thể là thật), chúng ta hãy coi Big Bang như một sự nảy mầm của một hạt giống, trong hạt giống này, công trình về vũ trụ đã được thiết kế, được mã hoá, được lập trình sẵn. Cũng cần phải thừa nhận thuyết “đa vũ trụ”, vũ trụ của chúng ta không phải là duy nhất, còn có nhiều, nhiều đến vô tận các cũ trụ khác nữa.
Thời điểm big bang là thời điểm hội đủ điều kiện về mọi mặt cần thiết cho một sự nảy mầm (giống như độ ẩm, nhiệt độ, địa điểm) và một tiếng nổ long trời lở đất xảy ra làm cái vỏ cứng như đá của hạt giống vũ trụ này nứt vỡ, một mầm non của CÂY VŨ TRỤ nhú ra, đẹp đẽ, kiêu sa hơn bất cứ cái mầm nào trên trái đất, và nguồn năng lượng vô tận của các vũ trụ khác soi rọi làm cho cái mầm nhỏ nhoi này lớn nhanh như thổi, và hơn 13,7 tỷ năm trôi qua với biết bao phong ba bão táp, Cây vũ trụ vẫn vươn mình lớn lên trở thành một cái cây khổng lồ với cành, nhánh vô hình đối với con người nhưng hoa, lá, quả là các thiên hà, các tinh vân, các hệ sao, ngôi sao,… lan toả khắp vũ trụ. Các quan sát thiên văn cho thấy, vũ trụ vẫn đang nở ra, tản xa ra với tốc độ ngày càng lớn.
Ở đây, chúng ta cũng cần phải lãng mạn và có óc tưởng tượng một chút, Cây vũ trụ là một loài cây đặc biệt, không giống hoàn toàn như cây cối thông thường trên trái đất. Dĩ nhiên, các loài cây vũ trụ chắc cũng hết sức phong phú, có cây mới lớn, có cây cổ thụ, có cây thân gỗ, có cái rễ chùm, lá kim,…
Về kích thước của cây, ta cũng thấy được qua hình ảnh một hạt cây (xà cừ chẳng hạn) bé bằng móng tay, nhưng sau chỉ 100 năm, cây xà cừ ở điều kiện mọc trong thiên nhiên, không bị gẫy đổ sẽ to lớn như thế nào. Ngay như cơ thể chúng ta, lúc được thụ tinh chỉ là một tế bào trứng nhỏ bé đến vô hình, vậy mà sau 20 năm đã thành một chàng trai, cô gái cao lớn như thế nào. Thế mà Cây vũ trụ của chúng ta đã trải qua 13,7 tỷ năm, một sự sống, một sự phát triển kéo dài gần 14 tỷ năm, thật khó có thể tưởng tượng nổi, bởi vậy, kích thước khổng lồ của Vũ trụ là vì vậy.
4) Không - thời gian là gì? Tại sao vũ trụ đối xứng trong không gian mà không đối xứng trong thời gian?
Không - thời gian là những chiều của Vũ trụ, sự đối xứng trong không gian chỉ là cảm giác, được phản ảnh qua các tấm gương, thực ra không hoàn toàn đối xứng.
Khái niệm trục thời gian đã giới hạn thời gian chỉ như một đường thẳng, trong khi không phải như vậy, thời gian không chỉ là quá khứ, hiện tại và tương lai. đối với con người ta có thể thấy ngay rằng có các loại thời gian song hành tồn tại khác nhau mà chúng ta thấy sự bất đối xứng:
- Thời gian khoa học (ngày, giờ, phút, giây,…);
- Thời gian tâm lý (thời gian chờ đợi bao giừ cũng lâu);
- Thời gian sinh lý (đồng hồ sinh học trong cơ thể) và
- Thời gian Tâm linh (chuyện Từ Thức gặp tiên, 1 ngày trên trời bằng trăm năm dưới đất);
5) Năng lượng tối là gì mà lại sinh ra lực đẩy làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh?
Vũ trụ có thể có nhiều nguồn năng lượng mà chúng ta chưa được biết, năng lượng tối - thứ năng lượng bí ẩn là một trong số đó. Trong công trình tạo dựng vũ trụ chắc chắn Tạo hoá phải thiết kế nguồn năng lượng để đảm bảo cho sự phát triển của Cây vũ trụ. Sự giãn nở của Vũ trụ được hình dung như sự lớn lên của một cái cây.
6) Sét hòn là gì? Tại sao nó lúc ẩn lúc hiện?
Khi đã coi cả Vũ trụ như là một sinh thể, một cái cây thì chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ đến việc có nhiều sinh thể khác mà chúng ta chưa được biết đến. Sinh thể không đơn thuẩn chỉ là cây, con, thực vật, động vật mà còn có thể là những sự vật, hiện tượng được “lập trình”, Sét hòn có thể là một sinh thể như vậy lúc ẩn, lúc hiện, khó quan sát, nắm bắt được.
7) Tế bào đầu tiên trên Trái Đất được sinh ra như thế nào? Trong ba lọai phân tử sinh học căn bản của sự sống, lọai nào có trước, ADN, ARN hay protein? (Bài tóan con gà và quả trứng)
Giải thích về Big Bang như trên để nói rằng Vũ trụ khi mới sinh ra có thể bé bằng đầu kim. Chỉ có điều, trong cái đầu kim đó đã chứa một bản thiết kế được lập sẵn, được mã hoá, vô hình vô dạng. Do đó, AND, ARN hay protein chỉ là 3 cấu thành trong bản thiết kế của Tạo hoá, không cái nào có trước cái nào, chỉ có Tạo hoá là có trước tiên.
8) Máy tính lượng tử có ưu việt thực sự hay không? Chế tạo nó như thế nào?
Máy tính lượng tử là mong ước vĩ đại của ngành khoa học máy tính cũng như của cả loài người. Muốn chế tạo nó, hãy học hỏi thiên nhiên, hãy trở về với bản thể vũ trụ. Tại sao chỉ với 4 chất hoá học gọi là “các bazơ”, đó là Adénine (A), Cytosine (C), Guanine (G) và Thymine (T) vậy mà mọi cơ thể sống từ hạt mù tạt đến con người hiện đại đều được cấu thành bới sự sắp xếp, kết nối của 4 chất đó!.
9) Bản chất thực sự của cơ học lượng tử là gì?
Không có câu trả lời (giành cho các nhà vật lý lượng tử).
10) Tác dụng của "tinh thần trên vật chất" (chẳng hạn dùng ý nghĩ "bẻ cong thìa") có thật hay không? Nếu có thì giải thích như thế nào? Nếu không, tại sao mọi người lại "mê" nó và các khả năng dị thường khác như vậy?
Việc xây dựng Kim tự tháp Ai cập vẫn còn coi là bí ẩn nếu không thừa nhận rằng đã có một thời, loài người biết sử dụng năng lực tinh thần để xây dựng các đền đài, lăng mộ, sau đó dần dần bị mất đi năng lực đó. Thực ra, nếu không có năng lực tinh thần, con người không thể làm nên trò trống gì. Chẳng hạn, một viên gạch được làm ra cũng là kết quả của các hoạt động tinh thần con người kết hợp với hoạt động chân tay (làm đất, đóng khuôn, nung và vận chuyển). Một tác phẩm nghệ thuật hay một sản phẩm điện tử cũng đều thấm đẫm năng lực tinh thần của con người. Chúng ta và vạn vật cũng thấm đẫm năng lực tinh thần của Vũ trụ, của Đấng Sáng tạo, đó chính là cái gọi là “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”, bởi vậy chúng ta vẫn mê và mong muốn có được những khả năng dị thường khác - những khả năng của Trời để có thêm sức mạnh.
11) Tại sao tóan học lại mô tả thế giới chính xác một cách kì lạ như vậy?
Vũ trụ hay bất cứ cơ thể sống, sinh thể nào đều được điều khiển bởi một chương trình, một phần mềm tin học. Phần mềm là những câu lệnh (command) được sắp xếp theo một trật tự nghiêm ngặt. Trong mỗi phần mềm là các hàm, các hằng, các biến. Các hàm là các quy luật được định sẵn, các hằng là các giới hạn để kiểm soát mọi hoạt động của hàm và biến. Các biến thay đổi khi chương trình chạy, giá trị các biến được tính toán, tăng hay giảm và so sánh với các hằng để quyết đinh các động tác thực hiện tiếp theo. Các công thức toán học được sử dụng trong các phần mềm bởi vậy, đương nhiên toán học mô tả thế giới một cách chính xác.
11 câu hỏi trên rất thú vị và không dễ trả lời nếu không “viện dẫn đến cả vũ trụ”, mỗi câu là cả một công trình khoa học đồ sộ, không thể trả lời một cách quá dễ dàng, giản đơn như Huy Minh.
Tuy nhiên, chúng ta thảo luận vui là chính, học được thì tốt, đừng cay cú, đừng nóng, đừng vội phủ định, hãy suy nghĩ và hãy thật lãng mạn. Chúc mọi người vui vẻ./.