Đây là khái niệm thứ hai chia rẽ những người theo Chủ nghĩa Tập thể và
Tự do Cá nhân. Chủ nghĩa Tập thể dựa trên niềm tin rằng nhóm quan trọng
hơn là cá nhân. Theo quan điểm này, nhóm là một thực thể riêng độc lập
và nó có quyền của riêng nó. Thêm nữa, những quyền này quan trọng hơn là
quyền của cá nhân. Vì thế, nó có thể chấp nhận được việc hy sinh những
cá nhân nếu cần thiết cho “lợi ích lớn hơn của đa số”. Đã bao nhiêu lần
chúng ta nghe điều này? Ai có thể phản đối việc mất đi tự do nếu như nó
có một lý do thích đáng là cần thiết vì lợi ích lớn hơn của xã hội?
Nhóm tối cao, dĩ nhiên, là nhà nước. Vì thế, nhà nước là quan trọng hơn
những cá nhân công dân, và nó có thể chấp nhận được việc hy sinh các cá
nhân, nếu cần thiết, cho lợi ích của nhà nước. Khái niệm này là trái tim
của tất cả các hệ thống chuyên chế hiện đại được xây dựng trên mô hình
của Chủ nghĩa Tập thể.
Mặt khác, những người theo chủ nghĩa Tự
do Cá nhân nói ”Khoan đã. Nhóm? Nhóm là cái gì? Nó chỉ là một danh từ.
Bạn không thể chạm vào nhóm. Bạn không thể nhìn thấy nhóm. Tất cả những
gì bạn có thể chạm vào hay nhìn thấy chỉ là những cá nhân. Danh từ nhóm
là một sự trừu tượng hoá và không tồn tại như là một thực tế hữu hình.
Nó giống như là một vật trừu tượng gọi là rừng. Rừng không thực sự tồn
tại. Chỉ có cây là tồn tại. Rừng là khái niệm của nhiều cây. Tương tự
vậy, danh từ nhóm chỉ miêu tả một là khái niệm trừu tượng của nhiều cá
nhân. Chỉ có cá nhân là thực, và vì vậy, không có cái gọi là quyền của
nhóm. Chỉ những cá nhân mới có quyền.
Nếu chỉ vì có nhiều cá
nhân trong một nhóm này và ít hơn trong một nhóm khác thì nó không có
nghĩa cho phép sự ưu tiên cao hơn cho các cá nhân của nhóm lớn hơn –
thậm chí nếu bạn gọi nhóm lớn hơn đó là nhà nước đi chăng nữa. Đa số cử
tri không có nhiều quyền hơn là thiểu số. Quyền không xuất phát từ việc
đếm số lượng. Quyền không đến từ nhóm. Chúng là sở hữu bẩm sinh thuộc về
mỗi con người.
Khi một ai đó lập luận rằng cá nhân cần phải
hy sinh bản thân cho lợi ích lớn hơn của xã hội, chính xác cái mà họ
đang nói là một số cá nhân sẽ bị hy sinh cho lợi ích lớn hơn của những
cá nhân khác. Quan điểm đạo đức của những người theo Chủ nghĩa Tập thể
dựa trên số lượng. Mọi điều đều có thể làm được miễn là số người được
hưởng lợi được cho là lớn hơn số người cần phải hy sinh. Tôi nói được
cho là bởi vì, trên thực tế, những người quyết định ai sẽ phải hy sinh
không thể đếm chính xác. Kẻ độc tài luôn luôn tuyên bố họ đại diện cho
quyền lợi lớn hơn của đa số, nhưng trên thực tế, họ và những tổ chức ủng
hộ họ thường chiếm không quá một phần trăm dân số. Khi một ai đó nói
minh vì đám đông và đại diện cho quyền lợi tốt nhất của họ, thì lý do
bên dưới chỉ có thể là vì đám đông quá ngu xuẩn để có thể tự luận ra cái
gì là tốt nhất cho họ. Do đó những nhà lãnh đạo Tập thể Chủ nghĩa, tự
cho là khôn ngoan và đức độ, luôn quyết định thay cho họ. Bằng cách này,
họ có thể giải thích cho bất kỳ hành động tàn bạo hoặc bất công nào như
là biện pháp cần thiết vì lợi ích lớn hơn của xã hội.
A, đúng. Lợi ích lớn hơn dành cho đa số lớn hơn. Những kẻ chuyên chế hiện đại luôn khoác lên mình chiếc áo nhân đạo.
Bởi vì những người Tự do Cá nhân không thừa nhận sự bá quyền của nhóm,
nên những người Tập thể Chủ nghĩa thường phác họa họ như là những kẻ ích
kỷ và vô cảm đối với khó khăn của người khác. Luận thuyết đó khá phổ
biến trong trường học ngày hôm nay. Nếu một đứa trẻ không sẵn sàng đồng
hành với nhóm, nó bị chỉ trích là tính cộng đồng kém và không phải là
“đồng đội” tốt hay công dân tốt.... Nhưng chủ nghĩa Tự do Cá nhân không
dựa trên cái tôi. Nó dựa trên nguyên tắc. Nếu bạn chấp nhận lập luận
rằng cá nhân có thể được hy sinh cho nhóm, khi đó bạn đã phạm sai lầm
rất lớn ở hai điểm. Thứ nhất, do các cá nhân là thành phần cơ bản của
nhóm, nên dù gì thì khi đó chính nhóm cũng bị hy sinh, từng chút từng
chút một. Thứ hai, nguyên tắc bên dưới là chết người. Hôm nay, cá nhân
bị hy sinh có thể là người bạn không biết hoặc là ai đó bạn không thích.
Ngày mai, đó có thể là chính bạn. Phải mất một thời gian suy ngẫm để
nhận ra rằng lợi ích lớn hơn cho đa số không đạt được bằng cách hy sinh
cá nhân mà phải là bảo vệ cá nhân. Trên thực tế, lợi ích lớn hơn cho đa
số được phụng sự tốt nhất dưới chủ nghĩa Tự do Cá nhân, không phải Chủ
nghĩa Tập thể.
Cộng hòa đối lập Dân chủ
Chúng ta
đang bàn ở đây một trong các lý do làm nên sự khác biệt giữa cộng hòa và
dân chủ. Trong những năm gần đây, dân chủ thường được cho là một thể
chế nhà nước lý tưởng. Lấy ví dụ trên thế giới, nhà nước Mỹ là một thể
chế Cộng hòa. Tuy nhiên rất nhiều người lầm tưởng rằng Hiến pháp Mỹ đã
khai sinh ra một nước dân chủ, và lý do thích đáng cho việc Mỹ tấn công
các nước khác và lật đổ các chính phủ chuyên chế báo ngược ở đó là, như
chúng ta được bảo, để phổ biến nền dân chủ ra khắp thế giới. Nhưng nếu
bạn đọc các tài liệu và bài diễn văn của những bậc khai quốc đã viết nên
Hiến pháp Mỹ, bạn sẽ nhận ra rằng họ đã phê phán mạnh mẽ nền dân chủ –
và nếu bạn nhìn lại thực tế của cuộc sống tại những vùng đất mà nền dân
chủ đã được mang tới, bạn tìm thấy ít sự khác biệt giữa chế độ cũ và chế
độ mới, ngoại trừ chế độ mới có thể còn tệ hơn.
Trong nước
Mỹ thuộc địa, Samuel Adams, nhà lãnh đạo xuất chúng của phong trào độc
lập, đã bày tỏ quan điểm chung của các đồng sự của ông khi ông nói: “Dân
chủ không bao giờ tồn tại lâu. Nó sẽ nhanh chóng đào thải, kiệt quệ, và
tự giết chính nó. Đã không bao giờ có một nền dân chủ mà cuối cùng
không tự sát”.
Sự hiểu biết về mặt tối của dân chủ không phải
chỉ duy nhất tìm thấy ở những người Mỹ thuộc địa. Những nhà sử học Âu
Châu và các nhà lý luận chính trị đương thời cũng đã đi đến cùng một kết
luận. Tại Anh quốc, Lord Acton viết: “Một điều xấu xa của thể chế dân
chủ đang tràn ngập khắp nơi là sự bạo ngược chuyên chế của đảng chiến
thắng, bằng vũ lực hoặc gian lận, trong cuộc bầu cử.” Ở Scotland, giáo
sư lịch sử tại đại học Edinburgh, Alexander Tyler, đã viết:
“Dân chủ
luôn luôn là tạm bợ từ trong bản chất – nó đơn giản không thể tồn tại
như là một thể lâu dài của chính phủ. Dân chủ sẽ tiếp tục tồn tại cho
đến khi các cử tri khám phá ra rằng họ có thể tự bầu cho chính họ những
bổng lộc hào phóng từ ngân khố chung. Từ thời điểm đó trở đi, đa số sẽ
luôn luôn bầu cho các ứng viên có thể hứa hẹn mang lại nguồn lợi lớn
nhất lấy từ ngân khố chung, và đưa đến kết quả là mọi nền dân chủ cuối
cùng sẽ sụp đổ bởi vì các chính sách tài khóa thâm thủng – thông thường
được theo sau bởi một chế độ độc tài.”
Những bậc khai quốc đã viết
nên Hiến Pháp Mỹ tin rằng dân chủ là một trong các dạng thức tồi tệ nhất
có thể của chính phủ; và do đó họ đã tạo ra cái mà họ gọi gọi là nền
cộng hòa. Thật không may, danh từ này đã không còn mang ý nghĩa kinh
điển của nó vào năm 1787. Ngày nay nó được sử dụng một cách bừa bãi cho
tất cả mọi thứ từ độc tài quân sự, như là Cộng hòa Angola, cho đến độc
tài tập thể chủ nghĩa như là Cộng Hòa Trung Hoa. Nhưng hãy nhớ rằng vào
lúc Nước Mỹ Cộng Hòa được thành lập, danh từ này đã có ý nghĩa chính xác
và nó được hiểu bởi tất cả mọi người.
Đó cũng là lý do tại
sao danh từ dân chủ không hề xuất hiện trong Hiến pháp Mỹ; và khi người
Mỹ nguyện thề trung thành với lá cờ, đó là trung thành với nền cộng hòa
mà lá cờ đại diện, không phải nền dân chủ. Khi Colonel Davy Crockett gia
nhập cuộc Cách mạng Texas trước trận đánh Alamo nổi tiếng, ông đã từ
chối ký vào lời thề trung thành với chính phủ tương lai của Texas cho
đến khi từ ngữ được sửa thành chính phủ cộng hòa tương lai của Texas. Lý
do điều này là quan trọng là ở chỗ sự khác nhau giữa dân chủ và cộng
hòa chính là sự khác nhau giữa Chủ nghĩa Tập thể và chủ nghĩa Tự do Cá
Nhân.
Trong nền dân chủ thuần khiết, đa số cai trị, chấm dứt
tranh luận. Bạn có thể nói “Có gì sai với nó?” Chà, có thể có vô khối
thứ sai. Lối hành hình linh-sơ không qua xét xử mà theo biểu quyết của
đám đông ở Mỹ chống lại những người Mỹ gốc phi trong thế kỷ trước? Chỉ
có một người với ý kiến bất đồng, chỉ duy nhất anh ta ở phía bên đối
lập. Đó là dân chủ trong lúc thi hành nhiệm vụ.
“Khoan đã.”
bạn nói. “Đa số nên cai tri. Vâng, nhưng trong phạm vi không từ chối
quyền của thiểu số.” Và, tất nhiên, bạn đã đúng. Như Lord Acton đã quan
sát:
“Nó thật tồi tệ khi bị đàn áp bởi thiểu số, nhưng nó còn tệ hơn
nữa khi bị đàn áp bởi đa số... Bài thử chắc chắn nhất chúng ta có thể
dùng để đánh giá một đất nước có thực sự tự do hay không là tổng lượng
an toàn mà thiểu số được hưởng.”
Cung cấp sự đảm bảo cho thiểu số
chính xác là vai trò của nền Cộng hòa. Cộng hòa là một nhà nước dựa trên
nguyên tắc giới hạn sự cai trị của đa số, sao cho thiểu số – thậm chí
dù chỉ là một người – sẽ được bảo vệ khỏi ý thích bất chợt hay cảm hứng
của đa số.
Nền Cộng hòa được đặc trưng bởi hiến pháp được viết
thành các luật lệ để đảm bảo điều đó có thể thực hiện được. Đó là chức
năng của Luật Nhân Quyền của Mỹ, nó không là gì khác ngoài danh sách các
việc mà nhà nước không được làm. Nó viết rằng Quốc hội, mặc dù là đại
diện cho đa số, sẽ không ban hành bất cứ điều luật nào từ chối quyền của
thiểu số thực thi sự tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, hội họp hòa bình,
quyền tham gia quân ngũ, và các quyền “không thể chuyển nhượng” khác.
Những giới hạn này đối với sự cai trị của đa số là bản chất cốt lõi của
nền Cộng hòa, và chúng cũng là cốt lõi của ý thức hệ Tự do Cá nhân. Và
đây lại là một điểm khác biệt lớn giữa hai quan điểm: Những người Tập
thể Chủ nghĩa ủng hộ bất kỳ hành động nào miễn là nó có thể được cho là
vì lợi ích lớn hơn của đa số; và ở phía bên kia những người Tự do Cá
nhân bảo vệ quyền của thiểu số chống lại sự giận dữ và lòng tham của đa
số.
-- Thánh Ca Tự Do --
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét