Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016

Bày bàn ăn kiểu Tây

Pha Lê

Chúng ta rất hay tưởng tượng ra cảnh mình ngồi ăn một bữa hoành tráng trên những chiếc bàn dài ngoằng đó, nhưng tưởng tượng chừng 5 phút thì khựng lại e dè: ba cái dao muỗng nĩa dĩa bày trên đó phức tạp quá, dùng sao đây? Không biết dùng thì quê thiệt.
Thực chất, tìm hiểu về nghi thức ăn uống hoặc cách bày bàn ăn như những gì mình thấy trong phim hay trên tranh không có khó, nó chỉ khó khi bạn không biết cách học. Nhảy bổ vào học lễ nghĩa ngay sẽ chẳng thể nào vô đầu, cùng lắm bạn chỉ học vẹt, sau đó chả áp dụng được. Học đúng cách là phải học từ… thực đơn, bởi nói cho cùng thì việc sử dụng cái gì để ăn phụ thuộc vào cái món bạn sắp ăn.
Menu kiểu thời xưa:
Menu 3 món
Menu cơ bản nhất, ngày bình thường thì gia đình Tây thời xưa ăn 2 món, ngày nào đặc biệt hơn (hoặc có tiền) thì xơi 3. Bố cục của menu này đơn giản dễ hiểu:
Khai vị
Món chính
Món tráng miệng
Menu 5 món
Dành cho những ai có đủ tiền mướn đầu bếp và mua đồ ăn, bố cục linh động:
Món khai vị lạnh  
Món khai vị nóng 
Món chính 
Tráng miệng: kem (hoặc phó mát)
Tráng miệng: bánh (hoặc phó mát)
Tuỳ theo ý thích mà thay đổi menu này; thích 1 khai vị, 2 món chính, 2 tráng miệng vẫn được; 2 khai vị, 2 món chính, 1 tráng miệng cũng không sao. Bạn là huấn luyện viên, bạn có thể tự quyết “đội hình” 2-1-2 hay 2-2-1 hoặc 1-2-2.
Khai vị lạnh là những món không cần phải nấu, ví dụ như caviar, hàu sống, xa-lát; trong hình là cá hồi sống với sốt rau thơm cùng sốt miso.
Menu 7-8 món trở lên
Cái này thường dành cho giới quý tộc, những người chả cần phải gấp rút ăn để còn đi cày. Đại loại như vầy:
Đồ ăn chơi (thường là đồ biển như hàu, caviar, ốc…)
Súp
(Nghỉ giữa hiệp uống trà, cà phê)
Khai vị lạnh 
Khai vị nóng 
Món chính: cá
Món chính: thịt (2 món chính là lý do tại sao trong hình chụp bàn tiệc của nữ hoàng Anh có 2 con dao đó bạn Quang Trần)
Tráng miệng: kem 
Tráng miệng: bánh 
Tráng miệng: phó mát
Thời ấy phó mát luôn là món tráng miệng (vì nó là món dùng kèm với trái cây ngọt), Pháp dùng phó mát trước bánh và kem, Anh hoặc các nước châu Âu khác dùng phó mát sau cùng.
Menu thời nay:
Thời này thì chẳng mấy ai theo luật menu như thời xưa nữa, menu đắt nhất của các nhà hàngMichelin bây giờ đều trên 8 món, và đầu bếp chủ yếu chỉ sắp xếp sao cho bữa ăn hài hòa, không nhất thiết phải có đủ khai vị nóng lạnh, hoặc không nhất thiết phải 2 khai vị và 2 món chính. Nhà hàng thời nay cũng thích chiều khách nên súp hoặc caviar trở thành những món “tặng thêm”, không có trong menu nhưng họ cứ bưng ra mời. Bởi vậy nếu bạn vào nhà hàng Michelin và gọi thứ đắt nhất (thường là “Tasting menu”, cái menu này là menu riêng, không dính chung với menu thường), bạn cần chuần bị tâm lý để ăn thêm vài món “được tặng”.
Những món “ăn chơi” của nhà hàng Enoteca ở Ý. Tatsing menu của họ có trên 8 món, nếu bạn gọi tatsing menu thì sẽ được “khuyến mãi” những món như thế này khoảng vài lần, nghĩa là tổng cộng xơi chừng 10 món trở lên.

Bánh mì chấm trứng và truffle – “khuyến mãi” của nhà hàng Capirce.

Lễ nghĩa của việc ăn theo thực đơn của Tây:
Nếu bạn xơi một menu thời xưa (giờ ít khi gặp, chủ yếu chỉ có trong phim cổ trang, bạn sẽ gần như chẳng có cơ hội nhâm nhi một menu kiểu này nữa, nhưng đời biết đâu chữ ngờ…), bạn chỉ cần nhớ những điều cơ bản sau:
- Dùng muỗng nĩa từ ngoài vào trong (món khai vị đến món chính), sau đó từ trên xuống dưới (món tráng miệng); muỗng nĩa dành cho tráng miệng luôn để ở phía trên, vị trí 12 giờ của dĩa ăn, thay vì 2 bên hông)
- Bên phải luôn nhiều thứ lỉnh kỉnh hơn, dùng bên phải trước (ăn một tay) cho số lượng  dao nĩa bằng với bên trái, sau đó dùng dao và nĩa bằng 2 tay cũng theo thứ tự từ ngoài vào trong
- Rượu uống từ trái sang phải. Nước để nhấp sau mỗi món hòng “rửa miệng” và sẽ bày ngoài cùng bên trái, tiếp đến là champage cho khai vị, rượu trắng cho cá, đỏ cho thịt, và rượu ngọt cho phó mát.
- Dĩa ăn món chính nằm dưới cùng, dĩa khai vị ở giữa, và chén súp nằm trên. Như vậy khi ăn súp tới món khai vị tới món chính, hầu bàn chỉ việc nhấc dĩa dơ đã dùng và đưa vào bếp rửa thay vì chạy ra chạy vào để thay dĩa mới liên tục.
- Nĩa ăn các món thịt chính là nĩa to nhất, to nhì là nĩa ăn món cá chính, các món khai vị, xa-lát, sẽ có nĩa nhỏ.
- Dao ăn thịt có răng cưa và to, dao ăn cá cũng bén và to y như dao thịt nhưng không có răng cưa, dao ăn các món nhẹ như xa-lát, hải sản… sẽ nhỏ hơn.
.
Hình trên chỉ cách sắp xếp bàn ăn, thứ tự dao nĩa cho một bữa 7 món thời xưa.  Theo trình tự, bên phải nhiều hơn bên trái nên phải “sử dụng” bớt cho hai bên bằng nhau cái đã; cầm cái nĩa ngoài cùng bên phải lên. Hình ghi “seafood fork”, nghĩa là “nĩa ăn những món đồ biển” như ốc, tôm. Nĩa ăn hàu sẽ khác và nếu thực đơn có caviar thì bàn ăn sẽ bày muỗng thay vì nĩa, nhưng bạn đừng bận tâm làm gì; chỉ cần biết mình dùng cái thứ ngoài cùng bên phải để ăn món đầu tiên (bằng một tay).
Sau đó tới muỗng ăn súp, cũng một tay. Bạn nghỉ giữa hiệp để uống trà, uống cà phê, dùng 2 cái muỗng tiếp theo để khuấy đường hoặc sữa (nếu muốn, không dùng muỗng khuấy trà thì bồi sẽ tự biết để ý và dọn đi.)
Bây giờ, số lượng dao nĩa 2 bên trái phải đã bằng nhau. Chúng ta cầm bộ dao và nĩa ngoài cùng để ăn xa-lát (uống champage), sau đó là bộ dao nĩa kế tiếp để ăn cá (uống rượu trắng), rồi dao và nĩa trong cùng cho món thịt (uống rượu đỏ).  Dùng dao và nĩa đặt ở góc 10 giờ để lấy bánh mì cũng như phết bơ (nếu muốn, không thích ăn bánh mì thì cứ để đó)
Cuối cùng, dùng đến các thứ xếp ở vị trí 12 giờ.  Muỗng để múc kem, rồi dùng nĩa để xắn bánh hoặc xắn phó mát (uống rượu ngọt).
Nhìn chung đối với kiểu ăn truyền thống này thì nghi thức lẫn cách sắp xếp rất dễ; thực khách không cần biết mình sắp ăn cái gì, chỉ cần xài dụng cụ từ ngoài vào trong và từ trên xuống dưới. Chủ nhà thì bày mọi thứ theo trình tự, ăn sau cùng nằm trong, ăn trước nằm ngoài, tráng miệng nằm trên, ly uống thì từ trái qua phải. Dao luôn nằm bên phải (trừ khi khách của bạn thuận tay trái thì bạn phải đổi)
Nhưng thời nay, mọi thứ loạn cả; thịt có thể đi trước cá và xa-lát thì gần như không thấy (hoặc trở thành món “khuyến mãi”), luật ăn uống thời xưa cần phải bổ sung thêm cho hợp với thời nay:
- Nếu bên phải nhiều dụng cụ hơn, dùng thứ ngoài cùng bên phải trước (một tay), đến khi bên phải bằng số lượng với bên trái. Tuy nhiên, nếu thứ đầu tiên bên phải là con dao (để ăn những món cần cắt nhỏ) thì dùng dao bên phải và nĩa bên trái bằng 2 tay. Sau đó mới tính tiếp.
Nhìn cách bày bàn này thì thứ đầu tiên mình sẽ dùng là muỗng (chắc ăn súp), sau đó tới dao nĩa cho món chính, và cuối cùng là tráng miệng. Không cần biết thực đơn ra sao, chỉ cần nhìn cách sắp xếp là có thể đoán ra mình sắp xơi bao nhiêu món, dùng vật gì để ăn trước. Dễ phải không nào?

Còn đây, tuy bên phải nhiều thứ hơn nhưng ngoài cùng là dao, bạn chẳng tài nào dùng dao ăn một tay được, nên hãy cầm dao bên phải và nĩa bên trái để ăn khai vị. Sau đó, ngoài cùng bên phải sẽ là muỗng; muỗng dùng 1 tay được, nên bạn dùng muỗng xơi món tiếp theo (chắc lại súp). Cuối cùng dùng dao và nĩa để ăn món chính. Rồi xài muỗng ở vị trí 12 giờ để ăn tráng miệng. Tính ra thì đây là cách bày bàn cho thực đơn 4 món; 2 khai vị, 1 món chính, và 1 tráng miệng.

- Muỗng và nĩa không đi với nhau, Tây không có món nào cầm muỗng tay phải, cầm nĩa tay trái như cơm tấm của mình. Nếu số lượng muỗng nĩa bằng nhau ở hai bên phải trái, và ngoài cùng bên phải là muỗng thay vì dao, hãy dùng muỗng bên phải trước bằng một tay để ăn món đầu tiên, sau đó dùng nĩa bên trái (cầm bằng tay thuận) để ăn món tiếp theo.
Trong hình minh hoạ này, số lượng dụng cụ ở hai bên hông dĩa là đều nhau. Ngoài cùng bên phải là muỗng, vậy dùng muỗng ăn súp trước (khai vị nóng), sau đó sùng nĩa bên trái ăn xa-lát (khai vị lạnh). 2 bộ dao nĩa còn lại là để ăn 2 món chính (cá và thịt). Tráng miệng sau chót. Đây là đội hình 2-2-2 cho bữa tiệc 6 món.
 Ngược lại, nếu mình là người bày tiệc thì mình cũng bày mọi thứ theo món.  Nếu bạn định đãi: 1 món ăn chơi (ốc, hoặc thịt nguội), 1 súp, 1 salad, 1 món chính, 2 tráng miệng; đội hình 1-1-1-1-2 cho 6 món, thì bày bàn thế nào?

MỘT BỮA CỖ NÔNG THÔN VIỆT NAM



Trích một anh Tây tả màn ăn cỗ của người Bắc:

"Tất cả bọn họ hân hoan ngồi sà xuống nền nhà bày la liệt và lộn xộn các món thơm ngon, một số chồm người qua các đĩa đồ ăn để lấy cho mình gia vị và những thứ cần thiết. Những người trung niên bắt đầu đào bới trong các đĩa đồ ăn lớn, lôi ra những thứ có lẽ là ngon nhất cho vào chén của những người già hơn, một số người già sau khi nhận được miếng ngon bắt đầu cằn nhằn và lập tức chuyển chúng sang chén của mấy đứa con nít đang ngồi xung quanh.

[​IMG]

Không khí rất ồn ào, ai cũng nói một điều gì đấy nhưng có vẻ không quan trọng.

Noi gương những người đàn ông, đám phụ nữ thì tay lôi ra từ đĩa hay dùng đũa khoắng vào trong các nồi to hơn tìm kiếm một vài thứ mong muốn, khi vớt được một chùm trứng gà còn nhỏ, cả mấy người phụ nữ và đám con nít reo ồ lên.

Một trong số họ tiếp tục vớt đồ ăn trong các tô lớn, một số khác tỉ mẩn ngồi xé các chiến lợi phẩm để cung cấp cho lũ nhỏ.

Tôi thực sự không biết là bữa ăn đã bắt đầu hay chưa, khi người có vẻ lớn tuổi nhất ngồi rung rung chân liên tục và uống những ly rượu đục ngầu, một trong số họ lấy tay bốc một cây rau to, vặt lấy vài lá rồi ném cọng rau còn thừa trở về đĩa.

Số trẻ em vừa ăn vừa nói chuyện huyên náo và xô đẩy nhau rất hiếu động. Cứ mỗi lần mấy người đàn ông chọc đũa vào một đĩa xào thơm phức họ lại gào lên với những người xung quanh: Ăn đi, ăn đi.

Một phụ nữ đang múc đồ ăn cho chính mình chợt rụt phắt tay lại khi ai đó cũng thò đũa vào tô đồ ăn đó, chị ta có vẻ nhún nhường thái quá và hình như chưa ăn được bao nhiêu dù bữa ăn kéo dài đã gần 1 giờ đồng hồ, thời gian quá dài để bắt dạ dày phải liên tục nhận thêm đồ ăn.

Những vị cao niên được trọng vọng thấy rõ trong bữa ăn, họ ăn ít và thường xong đầu tiên. Một cô gái như từ dưới đất chui lên bưng đến một khay nước trà rất nóng kính cẩn mời những ông già, các ông mỗi người ngậm một cây tăm nhỏ xíu trong miệng liên tục cà qua cà lại như cách người ta sơn hàng rào không mỏi mệt, bắt đầu uống trà. Một ngụm trà nuốt vào sau đó họ chép miệng liên tục, rồi một ngụm nữa súc ộc ộc trong khi đám đông vẫn miệt mài ăn và thả đồ ăn vào chén của nhau.

Chợt một người phụ nữ quát to với đứa nhỏ có lẽ là con, không hiểu chị ta nói gì, nhưng thằng bé ngồi thụt ra khỏi chiếc chiếu, bẽn lẽn cúi mặt. Chị ta gầm gừ giật chén cơm trên tay nó, chan súp và lấy thêm các món khác còn lại trên mâm, giúi trở lại vào tay nó, miệng vẫn không thôi gầm gừ.

Sau này có dịp tiếp xúc với những người bạn Việt, tôi biết có một nguyên tắc trong bữa ăn với đám trẻ nít : lúc đầu họ khuyến khích chúng ăn nhanh ăn nhiều cho mau lớn, sau đó họ nói : ăn uống phải liên tục quan sát những người xung quanh và điều chỉnh hướng ngồi của mình cho hợp lý, còn thế nào là hợp lý và quan sát những người xung quanh để làm gì thì mỗi bà mẹ dạy con một kiểu.

Ai đó sau khi mút đũa chụt chụt bỗng dùng chính đôi đũa đó gắp thả vô trong đĩa tôi một miếng thịt hình thù kỳ dị, tất cả ồ lên : "Ngon lắm, ngon lắm". Tôi hơi ghê và băn khoăn liệu rằng những thứ mà họ thấy ngon thì tôi có thấy ngon hay không?

Bằng sự thận trọng cần thiết, tôi hiểu rằng phải nhường nó cho người lớn tuổi. Miếng ngon đó đi lòng vòng rất lâu trong các đôi đũa ướt nhẫy, cuối cùng nó thuộc về người chủ thực tế của gia đình, một người đàn ông gầy và khắc khổ, vừa nhai nát nó, anh ta vừa rên rỉ trong miệng những lời bình luận thì phải.

Không ai nghe và cũng không ai trả lời, mọi người còn túi bụi thu gom các thứ cần thiết để cho vào một miếng "bánh đa" vừa được nhúng trong nước cùng với rau sống được vẩy lung tung ướt cả mặt người ngồi bên.

Cái chính rút ra được là: Có những thứ sẽ thừa rất nhiều, có những thứ bị thiếu ngay trong chục phút đầu. Tôi cho rằng đây không chỉ là lỗi của đầu bếp, mà còn chính là lỗi của những người ăn, khi họ không chỉ ăn mà lại tự thấy có trách nhiệm thúc ép người khác phải ăn những món mình thấy ngon.

Và như tôi đã trải qua khi lấy một miếng ức con gà: "Đừng ăn! Đừng ăn! Không ngon! Không ngon!"... tức là ngăn cản người khách ăn một món mà chính họ bày ra đĩa vì nó... không ngon???

Khi bữa ăn kết thúc không ai dám động vào miếng "chả" cuối cùng nằm lại trên đĩa như kiểu nó bị tẩm thuốc độc, cũng không hiểu vì sao.

Ôi ! Một phong cách ăn uống độc đáo! Dù sao tôi thấy bữa ăn của họ tuy căng thẳng, mất trật tự và vất vả quá mức những cũng rất khó quên và rất thân mật với các nguyên tắc vừa mơ hồ vừa nghiêm khắc...

[​IMG]

Nguồn: FB Quoc Tuan Vu trên group ăn uống:

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016

Phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am,…

https://cvdvn.net/2016/02/14/phan-biet-chua-dinh-den-mieu-nghe-phu-quan-am/

Đình làng Đình Bảng
Đình làng Đình Bảng
(hanhtrinhtamlinh.com) Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,…Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,…
Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó.

CHÙA LÀ GÌ?

Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo.
Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư.

ĐÌNH LÀ GÌ?

Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Đình làng Đình Bảng
Đình làng Đình Bảng
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.
Xem thêm kiến trúc của đình làng: xem tiếp »

ĐỀN LÀ GÌ?

Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Đền Kiếp Bạc
Đền Kiếp Bạc
Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.
Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.

MIẾU LÀ GÌ?

Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.
Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)

NGHÈ LÀ GÌ?

Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).
Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh.
Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.

ĐIỆN THỜ LÀ GÌ?

Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.
Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…

PHỦ LÀ GÌ?

Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật). Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.

QUÁN LÀ GÌ?

Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).
Bích Câu đạo quán
Bích Câu đạo quán
Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).

AM LÀ GÌ?

Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.
Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.

TỔNG KẾT LẠI

Hầu hết các địa điểm thờ cúng đều gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, và tùy theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau. Có thể tóm gọn lại như sau:
1. Am và Chùa đều là nơi thờ Phật nhưng Am có quy mô nhỏ hơn chùa và thường hoạt động riêng lẻ. Chùa là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni (mang tính chất tập thể)
– Chùa mà có khoảng từ 20 vị tăng tu tập trở lên gọi là Tu Viện.
– Chùa có hệ phái khất sĩ gọi là Tịnh Xá (ở trong miền Nam).
– Những nơi tu tập có khu tăng, khu ni, có nhiều khu, nhiều chùa gọi là Đại Tòng Lâm.
2. Đình, Đền, Miếu, Điện đều là nơi linh thiêng thờ Thánh, Thần. Đình thường thoáng, cao, rộng, phù hợp với hội họp làng xã. Còn Đền, Miếu, Điện thường tối hơn, tạo cảm giác thiêng liêng, huyền bí cho người tới cầu cúng lễ bãi. Nhìn chung, Miếu có cấu trúc nhỏ hơn Điện, Điện nhỏ hơn Đền và Đền nhỏ hơn Đình (Miễu < Miếu < Điện < Đền < Đình). Thông thường mỗi làng chỉ có 1 Đình nhưng có thể có nhiều Đền, Miếu.
3. Phủ là nơi thờ Mẫu và truyền bá đạo Mẫu. Tuy nhiên cũng có nhiều phủ thờ cả Phật, đây được coi như sự giao thoa hòa nhập giữa các tôn giáo, tín ngưỡng.
4. Quán là nơi tu luyện và thờ cúng của Đạo giáo.
Tại Việt Nam các nền văn hoá tín ngưỡng thường giao thoa hoà nhập với nhau rất sâu (đây cũng là nét đặc trưng văn hóa tín ngưỡng tại Việt Nam). Có khi Chùa thờ cả Thần (kiến trúc: Tiền Phật hậu Thánh), Chùa thờ cả Mẫu (Tiền Phật hậu Mẫu)… Vì thế sự phân biệt ở đây là không rõ ràng trong đối tượng thờ cúng. Các bạn nên đặc biệt lưu ý đặc điểm này để tránh việc cầu xin không đúng ban, đúng chỗ, cũng như đặt lễ và hành lễ sai nghi thức (ví dụ để đồ mặn, đồ vàng mã ở Ban thờ Phật hoặc để đồ sống ở ban thờ Mẫu chẳng hạn. Xem thêm: Những nhận thức sai lệch về Phật giáo hiện nay vàĐi chùa lễ Phật như thế nào cho đúng?).
Ngay bản thân Đền, nếu đi sâu tìm hiểu sẽ rất phức tạp, khó phân loại. Có nơi thờ Nam thần, có nơi thờ Nữ thần. Thông thường đền thờ Nam thần thì to hơn Nữ thần nhưng đền thờ Nữ thần thì lại nhiều ban thờ hơn như ban Tứ phủ công đồng, ban Cô, ban Cậu. Tuy nhiên, hiện lại có 1 số đền thờ Nam thần lại cũng có ban thờ Mẫu, rồi thờ Cô, thờ Cậu… thành ra rất khó phân loại.