Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

Trí thức nửa mùa

"Như vậy là trí thức nửa mùa chỉ là một kẻ giả danh trí thức. Hắn dùng bằng cấp, chức vụ và phô trương thái độ quan tâm đối với các vấn đề xã hội để đóng giả. Hắn đóng giả cả cách giải trí, cả thói đam mê mang tính phô trương về tất cả những gì gọi là “văn hóa” nữa. Đây hóa ra là chỗ dễ phân biệt trí thức nửa mùa nhất." (Iu. F. Oleshuk).
Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết đến bạn đọc.
--------------------------------------------------------

Giới trí đang bị nhiều người chỉ trích. Họ bị coi là người chịu trách nhiệm về những cuộc cải cách đầy tai hoạ hồi những năm 1990. Hơn nữa, có thể nhận thấy rõ xu hướng là người ta không chỉ lên án giới trí thức về chuyện đó, mà còn vì vai trò của họ trong lịch sử đất nước nói chung, bắt đầu gần như từ nửa sau thế kỷ XIX, tức là từ khi những nhà cách mạng “thông ngôn kí lục” bước vào con đường khủng bố. Những lời kết án mang tính khái quát như thế không làm ai ngạc nhiên. Chúng ta, một đất nước có truyền thống phản trí thức, một truyền thống đã mang đến không ít đau khổ cho cả trí thức lẫn nước Nga.
Tác giả không có ý định phán xét trách nhiệm của giới trí thức về những việc mà người ta quy cho họ trong quá khứ (chủ nghĩa phiêu lưu chính trị, thái độ cuồng tín cách mạng v.v…). Nhưng là một nhân chứng của những sự kiện diễn ra trong giai đoạn cải cách – tức là những sự kiện diễn ra trong hai mưoi năm gần đây – tôi có thể đánh bạo mà khẳng định rằng: giới trí thức không tham gia vào việc đó.
Cái dư luận xã hội đang đổ mọi tội lỗi lên giới trí thức, theo tôi là đã có một sai lầm căn bản. Nó cho rằng dường nó như biết được giới trí thức là gì và ai là những người trí thức vậy.
Nói chung, hiếm khi tách biệt và xác định được bản sắc của giới trí thức – không phải ngẫu nhiên mà trong những câu chuyện về giới trí thức người ta luôn phải sử dụng những định thức khác nhau nhằm bổ sung và mở rộng khái niệm này (“giới trí thức sáng tạo”, “mang tính tích cực xã hội”, “cảm thấy có trách nhiệm đối với đất nước”, “sống bằng những nhu cầu tinh thần”). Nhưng trong trường hợp này vấn đề không phải là những người kết án giới trí thức đã sử dụng một phạm trù mà họ không hiểu (xin hãy hỏi họ trí thức là gì – nhất định họ sẽ bị lúng túng trong việc trả lời). Họ đã bỏ qua một sự kiện quan trọng nhất: Ở nước Nga, trong thế kỷ XX đã hình thành một tầng lớp xã hội, được coi là trí thức, nhưng trên thực tế lại không phải là như thế. Chính các đại diện của tầng lớp này, chứ không phải giới trí thức, đã đóng vai trò chủ yếu trong những cuộc cải cách đầy tai hoạ hồi những năm 80 và những năm 90 của thế kỷ vừa qua. Đấy là tầng lớp trí thức nửa mùa. Dĩ nhiên là sau khi đã đưa ra định nghĩa, tác giả phải minh giải nó.
Theo tôi tầng lớp trí thức nửa mùa được hình thành từ một kiểu người đặc biệt và tương đối phổ biến. Trước hết đấy là người có học, có văn hóa, lại thường giữ chức vụ chứng tỏ những phẩm chất đó của anh ta. Nhưng nếu tiếp xúc lâu ta sẽ thấy: trình độ học vấn, kiến thức của anh ta không nhiều, nhu cầu văn hóa cũng thiếu hụt. Thực chất, dù có mang một vẻ hào nhoáng trí thức bên ngoài thì đấy cũng chỉ là một “kẻ thất phu” mà thôi.
Vâng, như một người trí thức, dĩ nhiên là anh ta quan tâm đến công việc xã hội. Tầm hiểu biết của anh ta dường như cũng vượt ra khỏi các nhu cầu và tính toán cá nhân nữa. Thế gọi là tầm hiểu biết! Thế gọi là có quan điểm về những chuyện đang xảy ra xung quanh! Thường là chỉ ở mức tán nhảm của mấy gã chợ trời mà thôi. Không cao hơn cũng không sâu hơn một tí nào.


Một đặc điểm nữa – cũng là đặc điểm phân biệt anh ta với người trí thức chân chính – hoàn toàn không biết tư duy độc lập về các đề tài xã hội. Không, tư tưởng thì có thể có trong đầu, nhiều nữa là đằng khác, nhưng tất cả đều không phải của mình, tất cả đều là học mót được. Thái độ thuần phục giữ vai trò chủ đạo trong giới trí thức nửa mùa, đấy là quan điểm thịnh hành chung cho cả giai tầng này. Họ theo nó một cách tự tin vì những người này không thể tự nghĩ ra được quan điểm nào khác để thay thế cho nó. Tạo ra thái độ thuần phục là một việc đơn giản. Giới trí thức nửa mùa có đặc điểm là bao giờ cũng phải có thần tượng, những người có uy tín, những nhân vật để mà tôn sùng. Trong nước Nga xã hội chủ nghĩa thời gian qua, khi mà giới trí thức nửa mùa hình thành và phát triển, thì thần tượng của họ thường là những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và văn học – những người tích cực về mặt xã hội, có tinh thần phê phán-tranh luận về các vấn đề xã hội. Giới trí thức nửa mùa lĩnh hội quan điểm về hiện thực xung quanh từ những người như thế.
Một đặc điểm nữa của giới trí thức nửa mùa: thái độ hung hăng khi bàn về các vấn đề xã hội. Giới trí thức nửa mùa cho rằng mình là giai tầng đứng trên “quần chúng” và nói chung là đứng trên tất cả mọi thứ khác nữa. Giai tầng này có thói kiêu ngạo tập thể đặc thù và rất mạnh. Từ lâu họ đã tin tưởng rằng chỉ cần giao cho họ – giao cho những người đại diện của họ – quyền lực là mọi tai hoạ của đất nước sẽ được giải quyết ngay lập tức. Chứ còn gì nữa: họ chẳng phải là người truyền bá kiến thức đấy ư? Chẳng phải là những người có học nhất và thông minh nhất đang đứng trong đội ngũ của họ đấy ư?
Xin ghi nhận một tính chất nữa của giới trí thức nửa mùa: không chịu “tu thân”, đấy là nói theo cách ngày xưa. Không chịu đọc bất cứ một cái gì nghiêm túc, không chịu suy nghĩ một cách rốt ráo về bất cứ đề tài nào. Thường thì công việc tư duy độc lập được thay thế bằng việc nghe lỏm ý kiến và đánh giá của các nhân vật có uy tín và tuân theo một cách vô điều kiện. Có lẽ, ít nhất là một phần, sự lười biếng và thụ động về trí tuệ như thế là do giới trí thức nửa mùa thực sự tin rằng mình đã là trung tâm của kiến thức rồi. Nếu không cần cố gắng mà vẫn là trung tâm thì cố gắng để làm gì?
Cuối cùng, trí thức nửa mùa còn có đặc điểm nữa là tự ái về chính trị, một đặc điểm đương nhiên một khi người ta đã đánh giá mình cao đến như thế. Hóa ra là thế này: chúng tôi biết hết, chúng tôi có thể làm được tất – thế mà chúng tôi bị gạt ra khỏi quyền lực, ở đó chỉ toàn các “quan chức”, “toàn bọn quan liêu ngu dốt”, “tư duy hạn chế”. Đánh giá thấp về người khác và đánh giá quá cao về chính mình đã tạo ra thái độ tự ái về chính trị như một tâm trạng bền vững “nội tại” của giai tầng này. Đau đớn và phẫn nộ là thái độ thường trực của giai tầng đó.
Như vậy là trí thức nửa mùa chỉ là một kẻ giả danh trí thức. Hắn dùng bằng cấp, chức vụ và phô trương thái độ quan tâm đối với các vấn đề xã hội để đóng giả. Hắn đóng giả cả cách giải trí, cả thói đam mê mang tính phô trương về tất cả những gì gọi là “văn hóa” nữa. Đây hóa ra là chỗ dễ phân biệt trí thức nửa mùa nhất.


Thí dụ như trí thức nửa mùa lũ lượt đi nghe hòa nhạc trong nhạc viện. Đương nhiên là họ đặc biệt thèm khát được có mặt tại những buổi biểu diễn được mọi người chờ đợi – hiện diện tại những buổi biểu diễn của những diễn viên ngoại quốc hay nhạc sĩ tài danh. Nhưng sẽ thật thú vị nếu quan sát thái độ của đám trí thức nửa mùa này suốt buổi hòa nhạc đó. Họ cảm thấy cực kỳ chán nản! Đâu đâu cũng chỉ thấy những bộ mặt vô cảm, những ánh mắt đảo khắp khán phòng. Nhưng sau khi kết thúc thì đám đó lại nhiệt liệt vỗ tay, tỏ vẻ ngưỡng mộ, tôn kính diễn viên (nhạc sĩ). Có thể thấy bức tranh tương tự như thế trong một buổi triển lãm nghệ thuật có uy tín nào đó. Xếp hàng thì chen nhau, trong phòng thì uể oải, còn khi kết thúc thì lại tỏ ra ngưỡng mộ.
Xin đưa ra một phác thảo nữa – về khát vọng (giả tạo) của giới trí thức nửa mùa trong việc tìm hiểu hiện tình, nhu cầu và đặc điểm của đất nước. Nói rằng đấy là việc quan trọng thì trí thức nửa mùa lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng làm việc một cách nghiêm túc thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Thí dụ: cuối những năm 1980 có quyết định in toàn tập tác phẩm của V. Kliuchevski[1] và S. Solovjov[2], hai nhà sử học lớn nhất của nước Nga trước cách mạng. Lạy Chúa tôi, tầng lớp trí thức nửa mùa đã bị kích động đến mức nào! Họ đã tỏ ra hân hoan, tuy có hơi sớm, đối với các tác giả, đặc biệt là đối với Kliuchevski, đến mức nào. Vì họ đã nghe nói ở đâu đó: đây là một nhà tư tưởng đặc biệt, một người hiểu rõ quá khứ của nước Nga. Thế là giới trí thức nửa mùa tìm mọi cách đăng kí mua. Mua bán trao tay, còn bọn đầu cơ thì hét giá đến 300 thậm chí 400 rub, một khoản tiền lớn thời đó. Mua được – rồi sao? Trong hàng chục người đã đăng kí mua (tất cả đều là những trí thức cả về học vấn lẫn địa vị, một số còn là những nhà hoạt động văn hóa nữa) tôi chưa thấy một người nào đọc! Chưa một người nào! Mua về, đặt lên chỗ dễ thấy nhất – cho mọi người nhìn – thế là hết. Họ hết sức tự hào vì đã mua được những trước tác vĩ đại như thế. Lịch sử thì họ đã và vẫn đọc, nhưng không phải là thứ “nặng” như thế, chỉ là những cuốn sách phổ thông mà thôi.
Độc giả có thể thắc mắc: đấy có phải là một giai tầng không? Có phải là một lực lượng chính trị, lực lượng xã hội không? Có thể đấy chỉ đơn giản là những người có học vấn trung bình mà ở đâu, đất nước nào, xã hội nào chả có? Đúng thế, ở đâu cũng có. Nhưng ở nước ta từ nửa sau thế kỷ XX họ đã tạo thành một lực lượng chính trị, lực lượng xã hội. Họ không còn là những cá nhân trôi nổi trong xã hội nữa. Tại sao?
Thứ nhất, họ đông đảo đến mức đáng kinh ngạc. Lý do, theo tôi, là sự vội vã trong việc đào tạo hàng loạt, cụ thể là việc phát triển một cách ồ ạt, mang tính bề nổi các trường đại học – chuyên tu, tại chức, v.v…; mà ngay chính quy hóa ra cũng “chưa đủ tầm”. Rất nhiều người có bằng đại học, mà cùng với bằng cấp là quyền được tự coi là trí thức. Nhưng trên thực tế đấy chỉ là “nửa vời”. Thứ hai, điều này cũng không kém phần quan trọng, như đã nói bên trên, giai tầng này có thói kiêu ngạo chính trị: “Nếu có quyền chúng tôi có thể làm được hết”. Nguyên nhân của thái độ như thế không phải là điều bí mật. Một mặt, đấy là thái độ bất bình với môi trường sống đang ngày càng gia tăng trong toàn xã hội. Mặt khác, đấy là nhận thức cho rằng mình (do đông người và những quan niệm hời hợt) là một lực lượng mà “không có việc gì là khó” cả. Chỉ có những kẻ có suy nghĩ hời hợt mới có thái độ tự tin như thế vì họ quan niệm tất cả mọi thứ trên đời đều đơn giản. Kết quả là đám đông trí thức nửa mùa càng ngày càng trở thành giai tầng sẵn sàng tham gia hoạt động chính trị. Mà lại dựa vào cương lĩnh về những cuộc cải tổ và cải cách nhanh chóng nhất. Các giai tầng khác cũng tỏ ra bất mãn với nhiều vấn đề, nhưng không có thái độ kiêu ngạo chính trị như thế. Họ không hoạt động, họ chỉ bực bội và phàn nàn mà thôi. (Nếu ai còn nhớ thì đấy là bức tranh điển hình hồi những năm 1970-1980). Trí thức nửa mùa càng ngày càng khao khát lao vào trận chiến.
Khát khao hành động thì đã có, nhưng tai hoạ là ở chỗ họ chưa sẵn sàng hành động và hoàn toàn không biết cần phải làm gì. Tình hình càng trầm trọng thêm bởi niềm tin mù quáng của giới trí thức rằng họ biết rõ cần phải “làm gì”, kể cả với hoàn cảnh, chỉ cần tạo điều kiện cho họ là mọi việc sẽ xong ngay tắp lự. Do đó mà trong khoảng giao thời những năm 1980-1990 trong tâm trạng xã hội, bên cạnh tâm lý bất mãn chung đối với cuộc sống lại xuất hiện một xu hướng tự tin rất mạnh mẽ rằng dường như mọi việc đều cực kỳ đơn giản, có thể chấn chỉnh và sửa chữa một cách dễ dàng. Niềm tin này chính là dấu hiệu để phân biệt trí thức nửa mùa và cũng là ngọn cờ chiến đấu của họ.
Giới trí thức chân chính – những người lao động trí óc nghiêm túc, có nhiều kiến thức và có thói quen suy nghĩ độc lập – hoàn toàn xa lạ với thái độ ngang tàng như thế đối với các vấn đề phức tạp và quan trọng. Nhận thức được rằng mọi việc đều phức tạp và thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng là việc khó khăn, giới trí thức cảm thấy lo lắng và lúng túng. Nhưng trí thức nửa mùa thì, xin nhắc lại, lao vào chiến đấu.
Giai đoạn “cải tổ” ban đầu đã trở thành chất xúc tác cho các hoạt động chính trị và cải cách của giới trí thức nửa mùa. Đất nước đang cần những thay đổi to lớn và nhanh chóng, đặc biệt là về kinh tế. M. Gorbachev, sau khi nhận thức được rằng những biện pháp thận trọng ban đầu sẽ không đem lại hiệu quả, buộc phải hướng về giới trí thức nửa mùa, phải dùng những kẻ đang khát khao những thay đổi như thế, mà cụ thể là những người làm việc trong lĩnh vực khoa học kinh tế và khoa học xã hội. Tôi không muốn nói rằng chỉ có những trí thức nửa mùa đóng vai trò cố vấn và “nói leo”, nhưng phần lớn là những người như thế. Nhưng Gorbachev đã nhanh chóng bị rát mặt vì những lời cố vấn của họ. Là một người nhanh trí, ông lập tức nhận ra rằng những lời gợi ý và khuyến nghị của họ thường chỉ có tính cách nghiệp dư và chẳng mang lại kết quả gì, đằng sau cái vẻ khoa học và hiểu biết mang tính trang trí của các cố vấn thì tất cả những khuyến nghị đó chẳng có giá trị gì hết.


Xin ghi lại một hồi ức về thời đó. Lúc đó Gorbachev rất tin tưởng vào những khuyến nghị về kinh tế của Viện Kinh tế và Giám đốc Viện là viện sĩ L. Abalkin – một chuyên gia rất sâu sắc và có uy tín. Một lần Albalkin đến Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế và cay đắng nói rằng Tổng bí thư giao cho ông lập tại Viện một nhóm các nhà kinh tế gia tài năng để tạo thành “túi khôn” cho cải tổ, nhưng sau khi đã lùng khắp cả nước ông vẫn không tìm được ai: “Tất cả đều là các cán bộ tuyên truyền và những người tố cáo chủ nghĩa đế quốc, còn công việc thì chẳng có ai hiểu gì”. Dĩ nhiên đấy là câu chuyện về giới trí thức nửa mùa trong lĩnh vực kinh tế học.
Gorbachev đã quay lưng lại với những trí thức bất tài. Kinh nghiệm đã thu thập được là lý do ông có thái độ coi thường đối với tác phẩm của nhóm G. Iavlinski và kết quả của nó, tức là kế hoạch “năm trăm ngày”, liên quan đến giai đoạn cải tổ kinh tế ban đầu. Lúc đó Gorbachev đã nhận thức được rằng ông đang có quan hệ với những người như thế nào. Nhưng trong lĩnh vực những cuộc cải cách kinh tế đã chín muồi ông chẳng còn biết đi theo hướng nào nữa. Ông kiên quyết từ bỏ các cố vấn thận trọng trong các cơ cấu quản lý, theo ông thì đấy là những kẻ chẳng được tích sự gì. Các trí thức hóa ra cũng là những người bất lực nốt. Trong nhiệm kỳ thứ hai ông quyết định dành nhiều công sức hơn cho lĩnh vực đối ngoại, cố gắng dùng thành tích trong lĩnh vực này nhằm trám lại những lỗ hổng uy tín quá lớn trong lĩnh vực kinh tế.
Tâm trạng của giới trí thức nửa vời – không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn rộng hơn – trong giai đoạn này thì như thế nào? Có thể họ đã ngộ ra rằng chính sách cải cách không phải là một việc đơn giản? Rằng họ không có kiến thức về hiện tình của đất nước? Rằng cần phải suy nghĩ một một cách nghiêm túc và sâu sắc, phải tìm kiếm, biến mình thành những người nghiên cứu xã hội? Không có gì như thế cả. Giới trí thức nửa mùa đã không còn là nửa mùa nếu họ có khả năng làm như thế. Tự phân tích không phải công việc phù hợp với họ. Họ có những phản ứng hoàn toàn khác – đơn giản, cứng nhắc và rất kiên quyết nữa. Đấy cũng là đặc trưng của hệ thống tư duy của cả giai tầng này. Trí thức nửa mùa bắt đầu thuyết phục dư luận xã hội rằng tất cả là do lỗi của Gorbachev, rằng những lời cố vấn mà họ đưa ra hoàn toàn chẳng có vai trò gì. Và cả giai tầng này lập tức quay lưng lại với Gorbachev. Sau đó, cũng lại vẫn theo tinh thần của trí thức nửa mùa; họ lao ngay lên một nấc thang cấp tiến mới. Từ quan niệm đơn giản về cải cách và sự kiên quyết của mình, họ đòi: cần phải đập tan “toàn bộ hệ thống”. Chỉ có thế mới ăn thua. Họ lại cảm thấy mọi thứ cực kỳ đơn giản – chỉ cần kiên quyết hơn, “phá đến tận gốc” là xong.
Đúng lúc đó trên sân khấu chính trị xuất hiện thêm một người còn đóng vai trò xúc tác mạnh mẽ hơn đối với năng lực chính trị và cải cách của giới trí thức nửa mùa, đấy là B. Yelsin. Sau những lời khẩn cầu về việc “minh oan về mặt chính trị” bất thành tại Hội nghị Đảng lần thứ XIX (1988), ông ta, một người đã hoàn toàn li khai với Đảng và hệ thống cũ, cần những cuộc cải cách theo xu hướng đập tan tất cả ngay lập tức. Tôi nghĩ đấy là do không chỉ vì ông ta tin rằng hệ thống cũ và Đảng không có khả năng giải quyết được những vấn đề của đất nước (những vấn đề quả là to lớn và đã tích tụ trong hàng chục năm hoạt động của hệ thống và Đảng) mà còn vì sau khi đoạn tuyệt, hệ thống và Đảng đã trở thành kẻ thù nguy hiểm của ông ta. Vì những tổ chức đó có thể phản kích, muốn cho Yeltsin sống sót về mặt chính trị thì cả Đảng lẫn hệ thống đều phải bị đập tan.
Ai có thể soạn thảo và thực hiện một kế hoạch như thế? Chỉ có một lực lượng duy nhất, đấy là giới trí thức nửa mùa, sau giai đoạn kết hợp ngắn ngủi với Gorbachev, đã trở thành cấp tiến hơn. Việc phá huỷ toàn bộ đất nước hoàn toàn phù hợp với trình độ tri thức và quan điểm của họ. Họ không nghi ngờ gì – cũng như khi cố vấn cho Gorbachev – rằng mọi việc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp nhất. Tầm hiểu biết không cho phép họ nghi ngờ.
Xin nhớ lại không khí cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Trí thức nửa mùa giành được quyền lực một cách cực kỳ nhanh chóng, họ nắm trong tay nhiều toà báo, nhiều kênh truyền hình, đài phát thanh. Họ – đấy là nói về Moskva – thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, đưa một loạt diễn giả bốc lửa và cuối cùng đã làm chủ được công luận. Không khí thật là phấn khởi và tự tin: nếu chúng ta đập tan được “chế độ toàn trị” thì trong cái mũ này sẽ có những gì? Chỉ cần thực hiện xong những cuộc cải cách mang tính khai phóng – trong kinh tế và chính trị – thì sẽ có gấp đôi, đúng không? Chỉ có sự ngu dốt một cách cùng cực và con đẻ của nó là sự đơn giản hóa tối đa mới có thể dẫn đến thái độ lạc quan vô căn cứ như thế mà thôi. Mà đây chính là dấu hiệu cha truyền con nối của trí thức nửa mùa. Họ tỏ ra hân hoan và đưa ra những lời tiên tri, họ cố gắng làm cho người khác cũng nhiễm những hy vọng thiếu căn cứ, cứ như là ngay ngày mai chúng ta sẽ sống như ở Mĩ hay ít nhất thì cũng như Thụy Điển vậy. Chính họ chứ không phải tầng lớp hay nhóm xã hội nào khác. Còn đa số dân chúng thì tỏ ra thận trọng, lo lắng.
Dưới trào Yeltsin (đặc biệt là giai đoạn đầu) trí thức nửa mùa phát triển hết cỡ. Có một quy luật với rất ít ngoại lệ: ý định cải cách càng vĩ đại thì càng có nhiều người tự tin và ít hiểu biết sẵn sàng thực hiện nó. Công việc như thế thường làm cho những người nghiêm túc, có suy nghĩ tỏ ra thận trọng, chứ không hấp dẫn được họ. Thậm chí đơn giản là làm cho họ sợ nữa.
Đấy chính là điều đã xảy ra ở nước Nga vào đầu những năm 1990. Cái nhóm tiến hành công việc cải cách ấy gồm những ai? Cho đến nay, người ta đã viết hàng núi sách khác nhau đủ loại về nhóm người này. Nhưng dù sao giữa hàng loạt đặc điểm được nêu ra vẫn có một sự tương đồng. Đấy chính là những đặc điểm của giới trí thức nửa mùa. Thứ nhất, tất cả mọi người đều ghi nhận sự tự tin vô tiền khoáng hậu của nhóm những nhà cải cách-cấp tiến vào sức mạnh và khả năng của mình. Nói chung, dĩ nhiên đấy không phải là một phẩm chất xấu, nhưng khi chủ nhân của nó bắt tay cải tạo một đất nước cực kỳ to lớn và cực kỳ phức tạp thì nó đã trở thành chỉ dấu của sự kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm, thiếu suy nghĩ, đầy nguy hiểm và thật đáng sợ. Thứ hai, chả lẽ sự tự tin mà vốn hiểu biết lại cực kỳ nghèo nàn không phải là đặc trưng thường gặp ở giới trí thức nửa mùa hay sao? Thực ra đây là những thanh niên, những người mới hôm qua còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, kinh nghiệm sống, chưa nói kiến thức chuyên môn, chẳng có bao nhiêu. Thứ ba, tốc độ và sự quyết liệt của các cuộc cải cách cũng chứng tỏ rằng đấy là những người kém hiểu biết, nếu hiểu biết họ đã không làm như thế.


Đúng là trong số những nhà cải cách cấp tiến có những người “không còn trẻ”. Nhưng thật ra không nhiều. Sẽ lầm to khi cho rằng trí thức nửa vời không tìm cách luồn lách để trở thành tiến sĩ, giáo sư, viện sĩ, v.v… Tác giả những dòng này, người đã làm trong lĩnh vực khoa học xã hội trong một thời gian dài, rất thường được nhìn thấy “những kẻ hay chữ lỏng” tự tin với các học hàm học vị cao nhất. Mà tất cả những người có dính líu đến lĩnh vực này đều nhìn thấy – chỗ nào chả có mặt họ.
Trong quan hệ của mình với đám người này, dĩ nhiên là Yeltsin đã lặp lại đúng con đường của Gorbachev. Ông đã nhanh chóng nhận ra bản chất của những nhà cải cách qúa tự tin. Ông cũng quay lưng với họ sau khi giải tán chính phủ Gaidar và thay bằng chính phủ của Trenomyrdyn. Không thể không nhớ lại làn sóng giận dữ và bất bình nhân sự kiện này trong phe hữu, nơi tập trung nhóm trí thức nửa mùa quyết liệt nhất. Trong hàng trăm bài báo, bài bình luận trên truyền hình và những bài phát biểu khác, những người cánh hữu kêu ầm lên về cái sự gần như là phản bội của Yeltsin đối với sự nghiệp cải cách. Tác giả những dòng này hoàn toàn không phải là người ủng hộ và sùng bái Yeltin, ngược lại là khác. Nhưng tôi không tán thành những lời kết án được những người cánh hữu coi là chuẩn mực, coi là có giá trị như một tiền đề lịch sử.
Sau khi thấy kết quả đầy tai hoạ của “liệu pháp sốc”, Yeltsin còn biết làm gì ngoài việc quay lưng lại với những nhà cải cách-cấp tiến? Bởi vì khởi kỳ thủy các nhà cải cách này đã vẽ ra viễn tượng cực kỳ xán lạn. Sau khi khởi động cuộc cải cách, Gaidar dự đoán rằng sẽ có một giai đoạn suy giảm sản xuất, giá sẽ tăng không đáng kể – từ 70 đến 200% – còn sau đó tình hình sẽ nhanh chóng ổn định và kinh tế sẽ phát triển. Kết quả? Tất cả những gì có thể đổ vỡ đều đã đổ vỡ hết. Giá cả gia tăng không phải từng đó mà là hàng ngàn lần! Sản xuất lâm vào tình trạng phá sản. Thất nghiệp cao khủng khiếp. Cả Chiến tranh thế giới I lẫn Chiến tranh thế giới II đều không đưa được nước Nga vào tình trạng khủng hoảng như những cuộc cải cách đó! Cần phải đặt câu hỏi: chính khách nào còn tin vào những kẻ đã gây ra thảm hoạ như thế? Trên thế giới này không có một kẻ nào điên đến mức như vậy.
Xin nói thêm vài lời nữa. Tác giả vẫn còn nhớ bài phát biểu đầy tức giận của Gaidar trên vô tuyến sau khi ông ta bị Yeltsin bãi nhiệm. Lúc đó ông ta đã cay đắng nhận xét rằng trong tình hình tuyệt vọng người ta mới cần đến ông, còn khi đã ổn định thì cho ra rìa (tôi nhớ chính xác ý của bài phát biểu là như thế). Đấy là gì: không muốn nhìn thẳng vào sự thật? Cố gắng cứu vớt uy tín? Hay là mánh khoé nữa của một chính khách đang tự cứu mình?
Có thể. Nhưng tôi cho rằng, đặc biệt là dưới ánh sáng của đề tài đang được thảo luận, ở đây có một cái gì đó hoàn toàn khác và nghiêm túc hơn nhiều. Đây lại là thêm một biểu hiện nữa của sự vô năng cố hữu của giới trí thức nửa mùa trong việc tự phân tích với tinh thần phê phán. Sự vô năng là do kiến thức nửa vời và góc nhìn hạn hẹp. Như ta thấy, Gaidar đã thực sự tin (và hiện vẫn còn tin) rằng ông ta và những người cùng hội cùng thuyền với mình đã làm đúng. Còn kết quả không được như ý là do bị người ta cản trở. Trong đó có cả vị Tổng thống “đã quay lưng” lại với họ. Một sự kiện đáng ghi nhận: sau đó một loạt các nhà cải cách-cấp tiến đã hứa với công luận rằng sẽ phân tích sai lầm của chính mình. Cố gắng đầy tai tiếng trong việc xuất bản một tác phẩm viết về các cuộc cải cách, năm vị “sư phụ cải cách” nổi danh nhất đứng đầu là Trubais đã nhận được một khoản nhuận bút cao chưa từng thấy từ một đại gia, cuốn sách có trách nhiệm rọi “luồng ánh sáng” của tư duy phê phán như đã hứa hẹn vào những gì họ đã làm.
Nhưng không thấy “luồng ánh sáng” nào cả. Vì sao? Vì biết bao nhiêu lời chỉ trích đã được nói lên từ tất cả mọi phía rồi! Dù là chỉ để tách gạo ra khỏi trấu (theo như những nhà cải cách-cấp tiến quan niệm) thì đáng ra người ta phải làm cái việc tự phân tích và xem xét những sai lầm từ lâu rồi. Tất cả các lực lượng chính trị đều sử dụng những biện pháp như thế.
Tác giả cho rằng mình biết cách giải thích điều bí ẩn này. Vấn đề hoàn toàn có thể là các nhà cải cách-cấp tiến thực sự không nhận ra rằng họ đã làm không đúng. Với kiểu người của họ, với sự hỗn hợp giữa thái độ tự tin và thiếu kiến thức như thế, đơn giản là họ không thể nhận ra điều đó. Còn khi hứa xem xét những sai lầm của chính mình là họ cố tình đánh lừa, cố tình tạo ra hình ảnh một lực lượng chính trị nghiêm túc và có trách nhiệm, có khả năng tư duy lại quá khứ và như vậy là nhằm nâng cao hiệu quả chính sách của mình trong tương lai.
Tác giả nhắm đến ba mục tiêu khi viết bài báo này. Thứ nhất, mục đích chung nhất là góp phần làm sáng tỏ sự kiện là phân bố lực lượng chính trị-xã hội mà chúng ta đã quen trong hàng chục năm, trong giai đoạn tiếp nối đầy tai ương giữa những năm 1980-1990 đã và vẫn không hoàn toàn là cách phân bố mà theo thói quen ta từng tưởng tượng. Tầng lớp trí thức mà ta tưởng là một tác nhân mạnh mẽ cho những biến đổi xã hội trên thực tế đã không phải là như thế. Nhân danh nó, giới trí thức nửa mùa, giống trí thức thực sự ở cái mẽ bên ngoài, đã nhảy lên sân khấu. Trên thực tế, đây là lực lượng cực kỳ thiển cận về mặt chính trị, họ sẵn sàng ra tay không phải vì hiểu được thực tế mà là do tự đánh giá mình quá cao.


Nhân chuyện này tôi muốn quay lại với định nghĩa về giới trí thức. Người ta nói nhiều đến định nghĩa này đúng vào lúc giới trí thức nửa mùa bắt đầu ngoi lên. Giới trí thức nửa mùa đã đưa cuộc thảo luận đến kết luận rằng trí thức là người thiết tha với quyền lợi xã hội, chứ không phải quyền lợi cá nhân hạn hẹp, và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh xã hội. Cách nhấn giọng như thế là có thể hiểu được. Nó ngầm kêu gọi ủng hộ giới trí thức nửa mùa vùng lên chống lại hệ thống, tiến hành đập tan hệ thống. Nhưng xin suy nghĩ thêm về định nghĩa này. “Thiết tha với quyền lợi xã hội” có phải là người trí thức không? Thế thì Hitler cũng được coi là người trí thức: hắn chả “thiết tha” đấy ư! Không, “thiết tha” không thể là tiêu chí được, tiêu chí phải là phẩm chất của cách tiếp cận với các vấn đề xã hội. Kiểu người, phương pháp tư duy, tính nghiêm túc, chiều sâu, trách nhiệm trước các hành động (nó còn là tính đạo đức nữa), kiến thức rộng do lao động miệt mài mà có. Và có thể không phải là vô tình mà người trí thức, tầng lớp trí thức lúc đó đã không được giải thích theo cách đó. Tác giả hoàn toàn không nhớ một trường hợp nào như thế. Nếu có thì giới trí thức nửa mùa đã lập tức bị đẩy ra khỏi tầng lớp trí thức, một giai tầng có uy tín của xã hội, ngay từ lúc đó.
Trí thức nửa mùa mang danh trí thức là một hiện tượng cực kỳ nguy hiểm, chứa đầy tai ương. Khi họ làm những công việc bình thường thì tai hoạ không phải là lớn (mặc dù dĩ nhiên là vẫn có: kém hiểu biết bao giờ cũng kéo theo hậu quả tiêu cực). Nhưng khi trí thức nửa mùa bắt tay vào làm việc lớn (đúng hơn là kiên quyết giành lấy vì thái độ tự tin của mình) thì tai hoạ là không thể tránh khỏi.
Mục đích thứ hai – góp phần, trong chừng mực có thể (tác giả không có chút ảo tưởng nào về khả năng này), để giới trí thức nửa mùa không thể tạo ra được ảnh hưởng trong lĩnh vực chính trị như trước đây được nữa. Mười năm vừa qua đã làm giới này rúng động một cách mãnh liệt nhất, nó đã yếu đi nhiều, đa phần đã “tan đàn sẻ nghé”, chuyển sang những mối bận tâm khác và sử dụng những khả năng khác. Nhưng không được đánh giá thấp “khả năng quay về” đỉnh cao quyền lực chính trị của giới trí thức nửa mùa. Dù chỉ là vì một nhóm, sau khi đã leo lên hồi cuối những năm 1980 – đầu những năm 1990 đang tìm mọi cách bám trụ, đã trở thành xu hướng hữu và cực hữu. Dĩ nhiên là trí thức nửa mùa đang và sẽ còn cố gắng thôi miên xã hội rằng họ biết cách giải quyết tất cả mọi vấn đề. Họ đang nói và còn tiếp tục nói một cách tự tin và xấc xược (hơn nữa, xin nhắc lại, chính họ – đúng hơn là nhiều người trong số họ – tin vào khả năng và sự đúng đắn của mình). Chỉ cần một phần dân chúng tin họ thì đấy sẽ là bi kịch không thể nào sửa chữa được. Nhưng nếu cuối cùng điều đó vẫn xảy ra thì rõ ràng số kiếp của chúng ta đáng phải như thế. Một xã hội, sau khi đã trải qua những thử thách khốc liệt nhất, không rút ra được bài học thì đừng hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Mục đích thứ ba – bảo vệ giới trí thức chân chính. Giúp rửa vết nhục trách nhiệm về những điều đã xảy ra với Tổ quốc ta trong quá khứ. Tầng lớp này, đáng tiếc còn quá ít, nhất là trên nền của giới trí thức nửa mùa, đã và tiếp tục làm những công việc quan trọng sống còn của đất nước. Bất cứ ở đâu, khi đem áp dụng kiến thức, sự nhẫn nại và cố gắng, họ cũng đều đạt đến nhận thức khách quan, đến nguyên nhân thật sự của tất cả các tiến trình và hiện tượng. Thật đáng tiếc là trong sự nghiệp cải cách, giới trí thức chân chính của chúng ta đã gần như bị giới trí thức nửa mùa say máu đỏ đen và xấc láo đẩy ra ngoài. Rất muốn tin rằng giới trí thức chân chính một lần nữa sẽ quay trở về với vai trò lịch sử của mình./.

Tác giả: Iu. F. Oleshuk
(Phó tiến sĩ sử học, cộng tác viên cao cấp Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Liên bang Nga)
Bài đăng trên tờ Tư tưởng tự do thế kỷ XXI, số 10, năm 2002, trang 27.
Người dịch: Phạm Nguyên Trường
Rút từ tác phẩm: Về trí thức Nga do La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành, năm 2009.
------------
Chú thích:
[1] Kliuchevski V. O. (1841-1911), nhà sử học nổi tiếng người Nga.
[2] Solovjov S. M (1820-1879), nhà sử học người Nga, Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Moskva từ năm 1871 đến năm 1877.

Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

Ngày tàn của trí thức


trach nhiem tri thuc
Tác giả: Nguyễn Hoài Vân – 25/5/2014


Thịnh và suy
Tại các quốc gia Tây Phương, khi thế quyền bị tách rời khỏi thần quyền, khi không còn các Đấng Quân Vương trị dân với sự ủy nhiệm của Thiên Chúa, và đương nhiên là theo Thánh Ý Ngài, thì quyền hành bỗng dưng gặp phải một sự thiếu vắng ý nghĩa, một định hướng luân lý, một nền tảng để có thể xây dựng trên đó những giá trị đạo đức. Khi đó, cái « thời » của người trí thức đã đến.
Người trí thức trở thành những kẻ định ra hướng đi của xã hội, vẽ đường cho những cải cách, những cuộc cách mạng, phê phán về tính « xấu » , « tốt » , của những quyết định và chương trình chính trị. Các chủ thuyết lớn ra đời, mang theo những ước vọng, lập ra những khuôn mẫu giáo điều, dựng nên những thần tượng, lấp vào chỗ trống của Thần Quyền. Thời của những chủ thuyết cứu rỗi (messianisme) đã đến, với hàng giáo phẩm không ai khác hơn là tầng lớp trí thức.
Dưới bầu trời phương Đông, không có Thần Quyền, chỉ có « Thiên Mệnh », một phần lệ thuộc « vận khí » của triều đại, nói nôm na là sự may mắn của triều đại ấy (có lẽ thể hiện Ý Trời ?), một phần được quy định bởi « nhân tâm ». Mà « nhân tâm » thì phần lớn được diễn đạt qua tầng lớp trí thức, tức là những kẻ biết nói văn vẻ, biết biện luận theo sách vở kinh điển, và nhất là biết viết.
Đến khi Đông Tây gặp nhau, thì trí thức phương Đông trở thành những người được đào luyện bởi phương Tây, với ít ra là những cung cách bên ngoài rập khuôn theo Tây Phương. Trí thức Đông Phương cũng phần nào được cộng hưởng sự vinh quang của các « đồng nghiệp » của họ bên trời Tây.
Rồi, thời gian trôi … Ngày nay, công kích xỉ vả trí thức trở thành một trò chơi được ham chuộng. Nước ta có Phạm Thị Hoài, qua bài trả lời phỏng vấn về trí thức trên báo Cánh Én, trước đó đã có Hà Sĩ Phu, và một số người nói theo ông ta, dư luận đều đã đề cập đến nhiều nên xin miễn bàn thêm (riêng bài của chị Hoài đã đưa đến một diễn đàn trên web với những đóng góp phong phú suốt nhiều tháng).
Bên nước Đại Pháp, tờ Le Débat, một diễn đàn quan trọng của giới trí thức, ra số kỷ niệm 20 năm với bài tựa của Pierre Nora, nhan đề : « Giã từ trí thức ». Tác giả này cho rằng có lẽ phải từ bỏ danh xưng trí thức, vì nó gắn liền với quá nhiều sai lầm và tội ác. Ông đề nghị nên đem chôn « trí thức » cùng với thế kỷ vừa chấm dứt !
Trong cùng số báo, sử gia Winock đặt câu hỏi : « Đâu là công dụng của trí thức ? » Sirinelli, một sử gia khác, diễn tả về trí thức qua «cảm tưởng mặt trời lặn», một cảm tưởng buồn … Cùng lúc, Régis Debray cho xuất bản một quyển sách tên là « Trí Thức Pháp, tiếp theo và hết ». Debray, văn sĩ tài danh, thủ khoa trường Normale Sup, chiến hữu của Che Guevarra tại bưng biền Nam Mỹ, cố vấn của Tổng Thống Mitterrand, người đã từng tham gia hầu hết các cuộc đấu tranh của trí thức suốt những thập niên vừa qua, thẳng thắn công nhận mình đã lầm đường (« j’ai déconné à plein tubes »), cũng như tầng lớp trí thức nước ông, để rồi cho rằng tầng lớp này đã chết.
« Xác chết của nó còn động đậy, nó còn làm vẻ, làm dáng, nhưng trong thực tế, nó chỉ là một con ma nham nhở » (Eric Conan –Express). Ngược lại, Alain Finkielkraut, triết gia hiện rất được chú ý, cho rằng « thái độ của người trí thức giống như một tuổi trẻ vị thành niên được kéo dài một cách quá đáng ». Tổng hợp hai ý kiến cho ra một thây ma lìa đời vào tuổi vị thành niên, nên còn tiếc nuối bám víu cõi hồng trần …
Những nguyên do của suy tàn
Vì sao hình ảnh của người trí thức lại trở nên tàn tạ như vậy ? Nội dung lập trường gọi là thiên tả của hầu như toàn thể tầng lớp trí thức suốt nhiều thập niên, đã được cảm nhận như một chuỗi sai lầm với nhiều tai hại.
Sở dĩ tôi nói «gọi là » thiên tả vì trong một thời gian dài người trí thức đã cố công bảo vệ những lập trường phản động nhất, theo chính quan điểm Marxiste, kết tụ trong chủ thuyết Staline-Mao. Họ đã bao che chế độ Goulag, miệt thị những nhân chứng phơi trần tính cách phi nhân của CS Liên Sô. Họ đã làm ngơ trước « Trăm Hoa Đua Nở » với « Bước Nhảy Vọt » và tiếp tục thần tượng hóa Mao Trạch Đông. Họ ủng hộ Bắc Việt Nam, ủng hộ Khmer Đỏ, ngay cả khi đã được biết về những cuộc thảm sát gây nên bởi tổ chức này.
Họ cho rằng « muốn ăn trứng thì phải đập vỏ trứng », muốn chiến thắng tư bản thì bằng bất cứ giá nào, phải sát cánh đàng sau các lực lượng « tiến bộ », không được gây tổn hại cho các lực lượng này, không được phân tán lực lượng, lẫn lộn mục tiêu v.v… « Những kẻ chống Cộng là đồ chó !», như lời Sartre. « Thà sai lầm với Sartre còn hơn là có lý với Aaron » là một khẩu hiệu thời thượng khác, cho thấy người trí thức đã chấp nhận thà lầm lẫn (theo Sartre) còn hơn là phản lại « cách mạng » (như Aaron).
Người trí thức Tây Phương đặc biệt là Pháp, vào lúc đó bị ám ảnh bởi quyền hành, bởi viễn tượng cách mạng « một buổi chiều » (le grand soir). Họ sẵn sàng tự tha hóa, sẵn sàng từ bỏ vai trò trí thức thực sự cho cái viễn tượng sẽ cướp được chính quyền ấy. Sự thất bại của cuộc chính biến tháng 5 1968 khiến một số trong họ quay về với những sinh hoạt trí thức thuần túy hơn.
Biến cố Hung Gia Lợi, rồi Tiệp Khắc cũng là những chấn động lớn trong hàng ngũ họ. Sự thật càng ngày càng được phơi bày. Đến khi thảm kịch của thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn CS được đem ra trước dư luận, thì người ta thấy Sartre và Aaron bắt tay hòa giải với nhau trên thềm điện Elysée, khi hai người cùng đến vận động cho việc cứu vớt đồng bào ta trên biển Đông. Sartre trở thành biểu tượng của sự dấn thân của thiên tài trí tuệ cho những mục tiêu chính trị sai lầm đến độ ngu xuẩn.
Phải chăng Debray đã có lý khi trích dẫn Proust : « càng ngày tôi đánh giá thấp cái giá trị của trí thông minh » ?
Tại Miền Nam Việt Nam trước 1975 người ta giảng dạy và đề cao không những Marxiste mà cả chủ thuyết Staline Mao trong đại học. Nhà báo thiên cộng đánh phá chính phủ một cách hiệu quả. Văn sĩ, nhạc sĩ thiên cộng gây nhiều ảnh hưởng trong quần chúng. Những nhân vật được coi như trí thức trong hàng ngũ tu sĩ các tôn giáo lớn cũng nêu cao những lập trường hiển nhiên hay mặc nhiên thiên cộng. « Thành phần thứ ba », một tập hợp thể hiện giấc mơ bắt tay với người Staliniste Việt Nam để « hòa hợp hòa giải dân tộc », « xây dựng đất nước » … quy tụ một số đông trí thức hàng đầu của Việt Nam Cộng Hòa.
Tại Miền Bắc Việt Nam, những tinh hoa của trí tuệ dân tộc quy hàng Bác và Đảng, như Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc Viện, v.v… đều nhanh chóng bị cầm giữ trong một hệ thống sắt máu, nhân danh công nghiệp « chống Mỹ cứu nước ». Lý tưởng ban đầu của họ không khác với trí thức Tây phương, nơi họ được đào tạo, và khi họ đã chui đầu vào rọ rồi, thì mọi sự vùng vẫy đều vô ích. Họ trở thành những công cụ của quyền hành, khi may mắn được quyền hành đoái hoài tới …
Trí thức cộng với quyền hành: không còn là trí thức
Thật vậy, khi trí thức bị ràng buộc vào quyền hành, thứ quyền hành mà chúng ta thường biết cho tới nay, bất kể trong tiến trình đang chinh phục quyền hành ấy hay đang cố nắm giữ nó, thì cái tính trí thức kia bắt buộc phải bị lu mờ đi. Khi đó, quyền hành luôn chiếm ưu tiên trên sinh hoạt trí thức. Sáng tạo của trí thức sẽ phải phục vụ quyền hành. Thông thường hơn hết là sáng tạo trí thức phải lu mờ đi, phải bị che phủ bởi tầng mây quyền hành. Mà sinh hoạt trí thức không có sáng tạo, thì là gì ? ích lợi gì ? (câu hỏi của Winock)
Con người trí thức khi nằm trong quyền hành, không còn suy nghĩ như trí thức, cũng không còn nhìn các người trí thức khác với cái nhìn trí thức. Nhà văn Phạm Thị Hoài đã nhận thấy điều đó. Hai ngàn ba trăm năm trước, Lý Tư, tác giả của những bài Khắc Thạch được kể là những áng văn hay, học trò của Tuân Tử, bạn học của Hàn Phi, khi làm tể tướng cho Tần Thủy Hoàng, có phát biểu như sau về trí thức :
« (…) Bây giờ thiên hạ đã định, pháp luật phát xuất tự một nơi, trăm họ thì gắng việc công nông, kẻ sĩ thì học tập (!) những điều nghiêm cấm. (…) Tuy vậy, người ta vẫn cho cái học riêng của mình là hay, để chê những kiến lập của bề trên. Nay bệ hạ gồm thâu thiên hạ, phân biệt trắng đen, ấn định tôn chỉ, thế mà bọn tư học cùng nhau bài bác pháp giáo, nghe lệnh trên ban xuống đều đem sở học ra mà nghị luận. Vào thì chê bai trong lòng, ra thì bàn bạc ngoài ngõ (…).
Vậy mà không cấm, thì ở trên thế vua sẽ phải bị giảm sút, ở dưới loạn đảng sẽ nhóm thành. Cấm đi thì tiện. Xin rằng các sách sử không phải chép về nhà Tần thì đốt đi. (…) Ai dám nói chuyện về Thi Thư thì bắt bỏ chợ. Ai dám khen việc đời xưa mà chê việc đời nay thì giết cả họ. (…) Những sách không bị loại bỏ là sách thuốc, sách bói và sách trồng trọt. Ai muốn học về pháp lệnh thì phải lấy quan lại làm thày.» (theo Trần Trọng San : Văn Học Trung Quốc đời Chu Tần)
Người trí thức Hàn Phi vắn tắt : « Nước của minh chủ không văn chương sử sách, chỉ có pháp luật để dạy, không cần trích dẫn vua trước, cứ lấy quan lại làm thày (dĩ lại vi sư). » (Hàn Phi Tử 19 – thiên 49)
Đơn giản : quyền hành muốn « nuốt » trí thức, kể cả cái « tính trí thức » trong nội tâm của chính người cầm quyền. Nhiều khi vì muốn duy trì cái « tính trí thức » ấy mà có người phải từ bỏ quyền hành, như Đức Khổng Tử.
Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Tôi rất thích thú khi thấy bộ trưởng Allegre của Pháp nói chuyện trên đài truyền hình về một quyển sách của ông bàn quanh vấn đề khoa học và niềm tin tôn giáo. Thích thú vì khám phá ra một ngoại lệ. Ít lâu sau ông bộ trưởng trí thức trực ngôn này bị mời về vườn hay đúng hơn là về Đại Học tiếp tục « gõ đầu trẻ ».
Tôi cũng đã mua quyển « anthologie de la poésie francaise » của Tổng Thống Pompidou, chỉ vì tò mò muốn xem một ông tổng thống « làm » trí thức, viết chuyện thơ văn, không chủ đích chính trị. Malraux cũng là một ngoại lệ, Havel cũng vậy. Có lẽ những người trí thức ấy đã không bị tha hóa bởi quyền hành. Malraux, vì sinh hoạt trí thức của ông không có vẻ bị ảnh hưởng bởi thời gian tham chánh, Havel, vì phản ứng rất « trí thức » trước đòi hỏi ly khai của Slovaquie…
Giải pháp để có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa
Nếu sự tha hóa của trí thức phần lớn là do liên hệ của tầng lớp này vói quyền hành, thì có lẽ chỉ có hai giải pháp :
1)      Tách trí thức khỏi quyền hành :
Cái khó của một nước như Việt Nam trong quá trình lịch sử là quyền hành thu hút hầu hết trí thức. Bên ngoài quyền hành là các thày đồ (… thày đạc, dạy học dạy hành …), mà « lẽ sống » vẫn là đào tạo học trò đi học làm quan. Hoặc giả có thể trông vào « tính trí thức » tự nhiên của dân gian, dù không có cái sở học khoa bảng ? Tại sao không ? Biết đâu chừng đó chính là yếu tố nền tảng duy trì sinh hoạt trí thức đúng nghĩa, biệt lập với tham vọng quyền hành, suốt dòng lịch sử nước ta ?
Sự sáng suốt của người dân, mầm mống của một nền « dân chủ » bất thành danh của Việt Nam ? « Phép vua thua lệ làng » , một loại « dân chủ trực tiếp » ? Thật ra, ngày nay không còn là lúc để tự thỏa mãn một cách viển vông với những nhận định kiểu này. Nhu cầu có được một tầng lớp trí thức đúng nghĩa là một thúc bách lớn. Nó đòi hỏi một Xã Hội Công Dân, biệt lập với chính quyền, trong đó người trí thức có cơ hội làm nhiệm vụ của mình. Nó đòi hỏi một nền giáo dục độc lập, những cơ cấu văn học nghệ thuật và thông tin độc lập. Nó đòi hỏi thay đổi cấu trúc quyền hành hiện tại của Việt Nam.
Thật ra, kinh nghiệm tại các nước Tây Phương cho thấy điều này chưa đủ. Các xã hội Tây Phương vẫn có một xã hội công dân tương đối phong phú nhưng tầng lớp trí thức của họ, như ta đã thấy ở trên, vẫn bệ rạc. Ở Tây Phương, trí thức còn là nạn nhân của sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Điều này đã đưa người trí thức đến phản xạ chạy theo dư luận, tìm sự ngoạn mục, tuyên bố dao to búa lớn, tranh thủ thời gian và do đó suy tư phiến diện. Thay vì đi vào những vấn đề nền tảng, suy nghĩ trong dài hạn, trong chiều sâu, tìm những khuynh hướng lâu dài trong sự chuyển hóa của các xã hội, phân tích những khái niệm và sự biến dịch của chúng cũng như sự hình thành của những khái niệm mới, thì người trí thức, do ảnh hưởng của truyền thông đại chúng, trở thành những kịch sĩ của một sân khấu thời sự rẻ tiền, hò hét quanh những vấn đề đang được ánh đèn dư luận chiếu đến, trong phút chốc, rồi hối hả quay sang vấn đề khác.
Họ suy tư vội vã, để kịp bao dàn sân khấu, để luôn hiện diện trước một công chúng hay thay đổi thị hiếu, luôn sẵn sàng đào thải họ vào quên lãng. Tại Việt Nam, vấn đề này chưa thực sự đặt ra, và những nhận định quanh nó chỉ đáng được đặt trong ngoạc đơn. Sự phát triển của một tầng lớp trí thức đúng nghĩa biệt lập với quyền hành mới thực sự là vấn đề trước mắt, và không phải dễ thực hiện …
2)      Thay đổi bản chất của quyền hành :
Ít ra là trên phương diện lý thuyết, một câu hỏi cần được nêu lên : có thể nào người trí thức vẫn nằm trong quyền hành mà không bị tha hóa, không mất « tính trí thức » ? Có thể. Nếu bản chất của quyền hành thay đổi, hay nếu năng lực nội tại của người trí thức ấy cho phép. Năng lực nội tại của người trí thức thì không có tính quy luật, không thể trông cậy vào nó. Chỉ còn thay đổi bản chất của quyền hành. Khi đó, phải tự hỏi :
- thay đổi để trở thành như thế nào ?
- làm sao thay đổi ?
- và nhất là ai chủ động thay đổi ?
Từ các xã hội độc tài rõ rệt, đến các quốc gia dân chủ hình thức, quyền hành gần như lúc nào cũng được coi như cứu cánh, như điểm đến của cuộc hành trình chính trị. Suốt cuộc đời chính trị, người ta làm như thế, nói như thế, viết như thế, có những thái độ cử chỉ như thế, thậm chí biểu diễn thổi kèn saxo, đội nón cao bồi, lên truyền hình hát nhạc « sến », v.v… đều với chủ đích nhắm vào quyền hành. Cái nội dung lời nói hay câu viết không quan trọng bằng tác dụng của những thứ ấy trong việc đưa tác giả của chúng đến gần quyền hành, hay bắm chặt quyền hành hơn. Tất cả những gì đưa đến quyền hành thì coi như tốt, còn lại là điều phải cố công loại bỏ.
Đạt đến quyền hành để làm gì ? Chúng ta có cảm tưởng đối với các đấu sĩ chính trị chuyên nghiệp này, đó là điều phụ thuộc ! Đành rằng khi tranh thủ quyền hành, người ta cũng có những chương trình kế hoạch kinh bang tế thế, hưng vượng quốc gia v.v… nhưng khi đã đạt đến quyền hành, họ nhẹ nhàng quay lưng phản lại những lời hứa cũ, nếu nó không thuận lợi cho sự bám lấy quyền hành của họ.
Lãnh tụ Xã Hội Léon Blum trong Hội Nghị thành Tours của Quốc Tế Thợ Thuyền năm 1920 có chất vấn phe CS Đệ Tam : « các ông muốn đạt đến chính quyền để cải tạo xã hội, hay chỉ dùng chiêu bài cải tạo xã hội để nắm chính quyền ? » Thật ra, câu chất vấn này phần nào có thể đặt ra cho hầu hết những kẻ cầm quyền.
Thay đổi bản chất của quyền hành là làm cho quyền hành không còn là điểm đến của cuộc hành trình, mà ngược lại, là điểm khởi đầu. Tức là phải đưa quyền hành xuống đến gần người dân, để những sáng kiến phát xuất từ người dân có được cái « quyền hành » đưa đến thực hiện. Như thế quyền hành sẽ là khởi điểm của cuộc hành trình, thực hiện sáng kiến cải thiện là tự thân cuộc hành trình ấy, và thành quả cải thiện thành công là điểm đến.
Nếu quan niệm được quyền hành như vậy, thì trí thức không những sẽ không bị tha hóa bởi quyền hành, mà ngược lại sẽ tìm thấy nơi quyền hành động cơ để thực hiện những sáng kiến của mình.
Trên phương diện thực tế, quan điểm dân chủ trực tiếp này vấp phải nhiều trở ngại kỹ thuật, nên thường bị coi là không tưởng. Theo tôi, trở ngại kỹ thuật có thể vượt qua (xin bàn đến trong dịp khác). Cái khó vượt qua là phản ứng bám trụ quyền hành của giai cấp chính trị chuyên nghiệp sợ phải đập bể nồi cơm của họ.
Làm sao thay đổi ? Điều vừa nói, cộng với định nghĩa của một thay đổi từ bản chất, từ cấu trúc, cho thấy ngay câu trả lời : đó là một cuộc cách mạng. Mà cách mạng thì tự nó hình thành qua những điều kiện khách quan. Có còn cần phải tự hỏi : « làm sao » ?
Ai chủ động thay đổi ? Nhất định không phải là những kẻ hiện nắm quyền. Một trở ngại không nhỏ là những kẻ đối lập cũng quan niệm quyền hành trong bản chất y hệt như nhóm cầm quyền mà họ muốn thay thế. Tức là đối với những người đối lập này, quyền hành vẫn là điểm đến của cuộc hành trình chính trị của họ. Giả sử họ thay thế được một chính thể độc tài trắng trợn bằng một thể chế dân chủ hình thức, thì tình hình quả có khá hơn, nhưng vấn đề căn bản vẫn chưa được giải quyết.
Tóm lại,
Ít ra là trong trường hợp Việt Nam tôi không thấy cần phải xỉ vả trí thức. Họ làm những gì có thể làm được trong những điều kiện cụ thể ràng buộc họ. Lọt vào quyền hành và bị tha hóa không nhất thiết biến họ thành những người xấu xa, hay dốt nát. Như một tập thể, họ đa dạng như những loài hoa, người thế này, kẻ thế khác…
Vấn đề là môi trường. Nếu môi trường sinh hoạt của họ khác đi, thì ta sẽ thấy một bộ mặt mới của trí thức Việt Nam, và những cánh hoa sẽ nở đẹp trong khu vườn trí thức.
Nguyễn Hoài Vân